Khi đề cập Nước Trời, Chúa Giêsu đã đưa ra nhiều dụ ngôn để mô tả. Một lần nọ, Ngài nói liền ba dụ ngôn: Kho Báu, Ngọc Quý, và Chiếc Lưới. Ngắn gọn mà súc tích.
- KHO BÁU (Mt 13:44) – “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.”
Dụ ngôn này không khó hiểu, nhưng khó quyết định “bán tất cả những gì mình có” hay giữ lại, đó là quyền chọn lựa riêng của mỗi người.
- NGỌC QUÝ (Mt 13:45-46) – “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”
Dụ ngôn này cũng không khó hiểu, nhưng cũng khó quyết định bán hay không bán, hoàn toàn tùy ý riêng.
Có lẽ đa số chúng ta là dân nghèo, không mấy ai là triệu phú hoặc tỷ phú (tính theo ngoại tệ, cụ thể là Mỹ kim, chứ nội tệ thì “tệ” lắm, ngày nay người Việt nào cũng chí ít là triệu phú, bởi vì tiền Việt là… “vô giá,” Việt tệ là vậy) nhưng dù nhiều hay ít thì tài sản riêng của ai cũng “lớn” lắm, không dễ gì dứt khoát từ bỏ. Tài sản đó không phải là vật chất, mà là “cái tôi” – tính tự ái, lòng kiêu ngạo, thói sĩ diện,… đặc biệt là “kho tàng” tội lỗi, bởi vì phạm tội cũng có cái “thú riêng.” Trái cấm bao giờ cũng hấp dẫn, “ăn vụng” ngon lắm! Bởi vậy, Chúa Giêsu nói: “Kho tàng của bạn ở đâu thì lòng bạn ở đó.” (Mt 6:21; Lc 12:34)
- CHIẾC LƯỚI (Mt 13:47-50) – “Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
Dụ ngôn thứ ba có vẻ “nặng” hơn, mạnh hơn và rõ hơn. Dụ ngôn này tương tự dụ ngôn “Cỏ Lùng.” (Mt 13:24-30) Không ngư dân nào để chung cá xấu với cá tốt, chắc chắn họ sẽ loại cá xấu ra. Cá xấu “bị vứt ra ngoài” thì “không còn gì để nói.” Bị vào nơi chỉ có lửa thì tha hồ mà “sưởi,” tha hồ khóc lóc và nghiến răng. Ở Hỏa Ngục thì “sướng” vô cùng, than thở suốt đời mà chẳng ai dỗ dành, an ủi, chẳng ai thương xót, hết đường thoát, Chúa cũng không cứu nổi, bởi vì đó là cách chọn theo ý muốn tự do của chúng ta. Khủng khiếp không thể tả!
Đây là điều chắc chắn: HỎA NGỤC CÓ THẬT, thật hơn cả sự thật. Nhiều người phải sa Hỏa Ngục bởi vì họ chưa bao giờ tin Hỏa Ngục có thật, mặc dù đã nghe nói tới nhiều rồi (x. Nhật Ký Thánh Faustina, số 741) Chúa Giêsu cũng đã mặc khải Hỏa Ngục cho vài vị thánh được thị kiến. Thật chứ không đùa. Nếu chưa đủ lòng mến để có thể ăn năn tội cách trọn thì cũng vì sợ mà ăn năn tội cách chẳng trọn. Chúa chấp nhận cả hai cách vì Ngài “giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta.” (Ep 2:4)
Thánh Faustina cho biết sự thật: “Đa số các linh hồn ở Hỏa Ngục là những người đã không tin có Hỏa Ngục.” Về Luyện Ngục, Thánh Tôma Aquinô nói: “Những người từ chối có Luyện Ngục là chống lại công lý của Thiên Chúa.”
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ có hiểu tất cả những điều ấy hay không, họ trả lời có hiểu. Và Ngài kết luận: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.” (Mt 13:52) Chúng ta đã nghe nói và biết nhiều về Nước Trời, càng nhiều tuổi càng nghe nhiều, phần quyết định thuộc về mỗi người. Mong sao mọi người đủ can đảm để “bán những gì mình có” để có được tấm “Visa Nước Trời” thì an tâm chờ “chuyến bay” vào bất cứ lúc nào.
Đề cập điều kiện vào Nước Trời, được cứu độ, Thánh Tôma Aquinô cho biết: “Có ba điều cần để con người được cứu độ: biết mình TIN gì, biết mình MUỐN gì, và biết mình LÀM gì.” Tin, Muốn và Làm là ba động từ quan trọng, giống như tam-giác-sống của mỗi Kitô hữu, là điều kiện “ắt có và đủ” để trở nên “công dân Nước Trời.”
Có nhiều thứ trái ngược – cụ thể và trừu tượng, một trong các cặp đối lập là Khôn và Khờ. Hai chữ bắt đầu bằng mẫu tự K, hai mẫu tự giống nhau về cách viết và cách phát âm, nhưng lại hoàn toàn trái ngược về ý nghĩa. Thế nào là khôn ngoan và ai khôn ngoan? Triết gia Albert Schweitzer (1875-1965, Đức quốc) nhận định: “Người lạc quan nhìn đâu cũng thấy màu xanh, người bi quan thấy khắp nơi chỉ toàn màu đỏ, còn người thực sự khôn ngoan thì mù màu.” Một cách nói thật thú vị. Khôn ngoan là điều rất quý giá.
Đức khôn ngoan vĩnh tồn vì khôn ngoan là “cội rễ không thể nào hư hoại” (Kn 3:15) và là “kho báu vô tận cho con người. Chiếm được Đức Khôn Ngoan là được nên bạn hữu với Thiên Chúa, và được Người tin cậy, vì đã tiếp nhận những lời dạy dỗ bảo ban.” (Kn 7:14) Quả thật, sự khôn ngoan không chỉ là điều rất cần thiết trong cuộc sống mà còn là một nhân đức. Sách Châm Ngôn xác định: “Khôn ngoan chính là cây sự sống đối với người nào nắm được khôn ngoan. Giữ được khôn ngoan quả là hạnh phúc.” (Cn 3:18) Sách Giảng Viên cho biết: “Sự khôn ngoan làm cho gương mặt con người ngời sáng, và nét cứng cỏi nên dịu dàng.” (Gv 8:1) Đặc biệt là sách Huấn ca xác định: “Bước đầu của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa, lòng kính sợ Đức Chúa là tuyệt đỉnh của khôn ngoan, mang lại bình an và sức khỏe dồi dào.” (Hc 1:14:18) Khôn ngoan hữu ích vô cùng!
Người giỏi giang và thông minh chưa chắc khôn ngoan, người ngu dốt không hẳn là thiếu khôn ngoan. Khôn ngoan không liên quan tình trạng giỏi giang, bộ óc thông minh hoặc ngu dốt. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu học hành chẳng bao nhiêu nhưng được Giáo Hội tôn phong là Tiến Sĩ vì thánh nữ có bí quyết nên thánh đơn giản là “con đường thơ ấu.” Chị thánh còn được tôn phong là bổn mạng các xứ truyền giáo, các phi công, những người bán hoa, và các bệnh nhân – đặc biệt là các bệnh nhân AIDS (SIDA). Thánh nữ Faustina (1905-1938) cũng chỉ là người kém cỏi về chữ nghĩa nhưng lại được Chúa Giêsu mặc khải bí quyết nên thánh là “tín thác vào Đức Kitô.” Thật là mầu nhiệm, như Chúa Giêsu đã tạ ơn Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11:25; Lc 10:21)
Có nhiều loại kho tàng, cả nghĩa đen và nghĩa bóng, nhưng chắc hẳn “kho tàng khôn ngoan” là kho tàng quý giá nhất. Quả thật, sự khôn ngoan rất cần thiết, nhất là đối với những khách hành hương đường trần gian nguy khó này. Vì thế, Chúa Giêsu đã căn dặn: “Anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu.” (Mt 10:16) Khôn – Dại còn tùy quan niệm, cái khôn của người này có thể là cái dại của người khác, và ngược lại. Người Công giáo có câu vè thế này: “Khôn thế gian làm quan Địa Ngục, dại thế gian làm quan Thiên Đàng.” Dù không tin vào Đức Kitô, người đời cũng vẫn đề cao sự khôn ngoan. Nhưng khôn ngoan cũng có năm nẻo, bảy đường, nhiều lối.
Văn hào Victor Hugo (Pháp) nói: “Sự thận trọng là con trưởng của sự khôn ngoan.” Văn sĩ Robert Heinlein (Mỹ) so sánh: “Lòng tốt thiếu đi sự khôn khéo thì chẳng khác gì cái ác.” Kịch tác gia Menander (Hy Lạp) nhận định: “Tóc bạc không sinh ra sự khôn ngoan.” Đó là dạng triết-lý-sống ở đời, đôi khi phải biết “sống ngược đời” như cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm tự trào: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn người tìm chốn lao xao.” Chẳng mấy ai có “cái dại” như cụ Trạng Trình đâu.
Vào một đêm xưa tại Ghípôn, Đức Chúa đã hiện ra báo mộng cho vua Salômôn: “Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho.” (1 V 3:5) Giấc mộng kỳ lạ quá, đúng là hơn cả tuyệt vời, được Chúa “bật đèn xanh” thì còn gì bằng. Nhưng khác hẳn với ý tưởng thông thường, vua Salômôn lại khiêm hạ: “Chính Ngài đã lấy lòng nhân hậu lớn lao mà xử với tôi tớ Chúa là Đavít thân phụ con, như người đã bước đi trước nhan Chúa cách trung thực, công chính, với tâm hồn ngay thẳng. Chúa đã duy trì lòng nhân hậu lớn lao ấy đối với người, khi ban cho người có một đứa con ngồi trên ngai của người hôm nay. Và bây giờ, lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của con, chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa đây lên ngôi kế vị Đavít, thân phụ con, mặc dầu con chỉ là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm quyền trị nước. Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông đúc, đông không kể xiết, cũng không đếm nổi. Xin ban cho tôi tớ Chúa đây một tâm hồn biết lắng nghe để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?” (1 V 3:6-9)
Thật là khôn ngoan khi vua Salômôn xin ơn khôn ngoan mà không nói rõ là sự khôn ngoan, mà chỉ xin “biết lắng nghe” và “biết phân biệt phải trái.” Biết hai điều đó thì khôn ngoan tột đỉnh rồi. Thật vậy, chính Chúa đã hài lòng khi vua Salômôn xin điều đó. (1 V 3:10) Và rồi Thiên Chúa phán với ông: “Bởi vì ngươi đã XIN điều đó, ngươi đã KHÔNG XIN cho được sống lâu hay được của cải, cũng KHÔNG XIN cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được TÀI PHÂN BIỆT ĐỂ XÉT XỬ, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi cũng chẳng có ai bì kịp.” (1 V 3:11-12) Vua Salômôn không chỉ là người khôn ngoan nhất thế gian, mà ông còn là người hạnh phúc nhất thế gian, bởi vì ông đã chiếm hữu được “kho báu” của Thiên Chúa. Ước gì chúng ta cũng biết xin những điều có lợi cho người khác để Thiên Chúa vui lòng, như vậy thì chúng ta cũng sẽ được Ngài ban một phần của vua Salômôn.
Cũng rất khôn ngoan khi Thánh Vịnh gia thân thưa: “Lạy Chúa, con đã nói: phần của con là tuân giữ lời Ngài.” (Tv 119:57) Chúng ta phải noi gương này, phải “coi trọng luật Chúa truyền ban hơn vàng muôn bạc triệu.” (Tv 119:72) Đó là một dạng “từ bỏ mình” để theo Chúa, và như vậy là khôn ngoan. Nhưng điều đó không dễ thực hiện nếu không “tự khó với chính mình.” Rất cần nỗ lực để có thể quyết tâm như “ông bụi đời” Gioan Tẩy Giả là làm cho Chúa phải nổi bật lên, còn mình phải lu mờ đi. (x. Ga 3:30)
Tự khó với chính mình nhưng không khó với người khác. Đó là một quyết tâm rất khó, nhưng phải cố làm, và phải xin Thiên Chúa xót thương: “Xin Chúa lấy tình thương mà an ủi, theo lời đã hứa với tôi tớ Ngài đây. Xin chạnh lòng thương cho con được sống, vì luật Ngài làm con vui sướng thỏa thuê.” (Tv 119:76-77) Quyết tâm như vậy rồi mới có thể thân thưa: “Mệnh lệnh Ngài, con yêu quý, quý hơn vàng, hơn cả vàng y. Vì thế, theo mọi huấn lệnh Ngài, con thẳng bước, lòng ghét mọi đường nẻo gian tà. Thánh ý Chúa kỳ diệu lắm thay, nên hồn con tuân giữ. Giải thích lời Ngài là đem lại ánh sáng cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường.” (Tv 119:127-130)
Chắc chắn khiêm nhường là điều Thiên Chúa muốn, Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng Ngài đã tự hạ tột cùng, tất nhiên Ngài không chỉ mong muốn mà còn bắt buộc chúng ta phải sống khiêm nhường. Trong bài Magnificat, Đức Mẹ đã xác định: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1:52)
Nền tảng của tòa nhà nhân đức là sự khiêm nhường, Cựu Ước cũng đề cao “viên đá góc tường” khiêm nhường và xác định: “Đức Chúa hạ bệ những ai quyền thế, và đặt kẻ hiền lành ngồi lên thay.” (Hc 10:14) Ngôn sứ Isaia nói rõ: “Đức Chúa làm nhục mọi đứa cao sang ngạo mạn, và hạ bệ mọi kẻ hiển danh trên mặt đất.” (Is 23:9) Thật lạ lùng, vua Nabucôđônôxo đã phải lên tiếng ca ngợi, tán dương và tôn vinh Thiên Chúa, đồng thời công nhận mọi việc của Ngài là chân thật và đường lối của Ngài là công minh: “Ngài có quyền hạ bệ kẻ quen thói kiêu căng hống hách.” (Đn 4:34)
Ý Chúa huyền nhiệm, quan phòng kỳ diệu, tiền định lạ lùng, chúng ta không thể nào hiểu thấu. Về ý định cứu độ của Thiên Chúa, Thánh Phaolô cho biết: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định. Vì những ai Người đã biết từ trước thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc.” (Rm 8:28-29) Thật tuyệt vời! Chúng ta được Thiên Chúa yêu quý và thương xót, được giải thoát khỏi ách tội lỗi nhờ Máu Đức Kitô, được phục hồi cương vị làm con cái, lại còn được làm em của Chúa Giêsu nữa. Phàm ngôn không thể diễn tả niềm hạnh phúc mà chúng ta đang được tận hưởng ngay ở đời này.
Thánh Phaolô xác định với chuỗi hệ lụy liên kết với nhau: “Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.” (Rm 8:30) Được “hưởng phúc vinh quang” tức là được vào Nước Trời, được vào Thiên Đàng là được vĩnh sinh.
Mục đích duy nhất của tín nhân là như thế. Nhưng muốn vào Nước Trời hay không là quyền tự do riêng của mỗi người, Thiên Chúa không ép buộc bất kỳ ai, vì Ngài ban cho chúng ta quyền tự do, và Ngài luôn tôn trọng quyền đó nơi bất cứ ai. Nhưng vì thương xót chúng ta, Ngài không thể bỏ mặc chúng ta, nên Ngài vẫn cảnh báo hoặc động viên chúng ta, vì Ngài muốn tất cả chúng ta được vào Nước Trời, không muốn ai phải hư mất. Có lẽ vì tôn trọng tự do của chúng ta mà Chúa Giêsu thường sử dụng dụ ngôn và nói: “Ai có tai thì nghe.” (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35) Tín nhân phải thực sự tỉnh thức, phải sống khôn ngoan chọn lựa để có thể trở nên công dân Nước Trời.
TRẦM THIÊN THU