Home / Chia Sẻ / Chuyện CHỮ NGHĨA

Chuyện CHỮ NGHĨA

chuyen-chu-nghiaÔng Phạm Quỳnh, chủ bút tạp chí Nam Phong (đầu thế kỷ XX), nói: “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, mà tiếng ta còn thì nước ta còn”.

Vấn đề là “nước ta còn”. Thế nhưng “tiếng nước ta”, gọi là “quốc ngữ”, mà vẫn thường bị dùng thiếu chính xác – ngay cả trong cách dùng của những người được coi là “giới trí thức”, báo chí, đài phát thanh và đài truyền hình. Có các “dư ngữ” quá nhiều: thì, là, mà,… Phàm cái gì “thừa” thì sẽ gây “vướng víu”, “khó chịu” lắm!

Hằng ngày chúng ta dùng ngôn ngữ nhiều, dù nói hoặc đọc, nhưng đôi khi có những cách dùng từ hoặc câu văn thật… “ngây ngô”. Chữ nghĩa mà biết nói năng, chắc là nó phải kêu oan tới trời!

Người ta thích đơn giản, nhưng lại thường làm ngược lại. Chắc hẳn ai cũng biết rằng câu văn ngắn gọn và súc tích sẽ làm người nghe/đọc dễ hiểu và hiểu chính xác vấn đề. Ngược lại, kiểu cách quá hóa rườm rà và lủng củng, khiến người nghe/đọc khó hiểu hoặc hiểu sai vấn đề.

Điển hình một số trường hợp:

– Thay vì nói “cái này đẹp”, chúng ta lại thường nói “cái này đẹp” hoặc “cái này thì đẹp”. Ngay cả báo viết cũng ghi vậy, và đài phát thanh hoặc đài truyền hình cũng nói vậy. Chữ “là” hoặc “thì” không cần thiết, chỉ làm câu văn nặng nề, rườm rà và “non yếu”.

– Tương tự, trong câu “nói đến người dân tộc thì mọi người đều liên tưởng đến…”, chữ “thì” làm câu văn “trĩu nặng”, nên dùng dấu phẩy để câu văn gọn gàng và nhẹ nhàng hơn: “Nói đến người dân tộc, mọi người đều liên tưởng đến…”.

– Liên từ “và” thì lại nói “thế và” (không phải “thế mà”) – với nghĩa tương tự liên từ “vả lại”, “tuy nhiên”, “nhưng”.

– Người ta thường nói “đề cập đến” là dư chữ “đến” (tới), vì trong từ kép “đề cập” (nói đến, nói tới) đã ngầm hiểu giới từ “đến” (tới). Chỉ cần nói: “Đừng đề cập vấn đề đó nữa”. Cũng vậy, cụm từ “liên quan đến (tới)” không thực sự cần thiết có giới từ “đến” (tới). Chỉ cần nói: “Vấn đề A liên quan vấn đề B”.

– Sao lại nói “hãy tự cứu lấy mình” hoặc “hãy biết lấy mình” mà không nói “hãy tự cứu mình” hoặc “hãy tự biết mình” cho gọn? Chữ “lấy” ở đây không cần thiết, nó làm câu văn rất… “vướng víu” và luộm thuộm.

– Chữ “dấu” và “giấu” cũng thường bị dùng sai. “Dấu” là “dấu vết”, còn “giấu” là “che giấu” hoặc “giấu giếm”. Ngay trên các website vẫn thấy người ta viết “che dấu”, mà đúng ra phải viết “che giấu”.

– Người ta thường nói: “Tôi có yếu điểm là không ăn được cay”. Đáng lẽ phải dùng chữ “nhược điểm” mới đúng, vì “yếu điểm” là “điểm mạnh”, là sở trường, không phải là “điểm yếu”; “nhược điểm” mới là “điểm yếu”.

– Câu “tôi muốn biết bạn làm gì” khác với “bạn làm gì?”. Câu “bạn làm gì?” là câu hỏi trực tiếp, phải có dấu nghi vấn (?); còn câu “tôi muốn biết bạn làm gì” là câu hỏi gián tiếp (không có dấu nghi vấn). Thế nhưng ngay cả báo chí vẫn in sai (tức là vẫn sử dụng dấu ? trong dạng câu hỏi gián tiếp).

– Những chữ thông thường mà nhiều người vẫn viết sai: “Sử dụng” mà lại viết “xử dụng”, “giành nhau” mà lại viết “dành nhau”, “quý vị” mà lại dùng “các quý vị”,… Bởi vì “giành” là “giành giật”, “giành lấy”; còn “dành” là “dành riêng”, “để dành”; và trong chữ “quý vị” đã bao hàm số nhiều, dư chữ “các”.

– “Diệu huyền” khác với “dịu hiền”. Vậy mà thấy người ta vẫn dùng là “diệu hiền” và “dịu huyền”.

– Cách phân câu bằng dấu phẩy (phết) hoặc dấu “gạch ngang” cũng thường bị áp dụng sai. Ví dụ: Giáo sư A, trưởng khoa Vật Lý, vừa đạt giải Nobel Hòa Bình. Có thể viết: Giáo sư A – trưởng khoa Vật Lý – vừa đạt giải Nobel Hòa Bình. Dấu phẩy hoặc dấu gạch ngang phải đặt trước và sau cụm từ “trưởng khoa Vật Lý”, bởi vì cụm từ này là phần phụ, để giải thích và xác định về giáo sư A. Thế nhưng người ta thường “bỏ qua” dấu phẩy hoặc dấu gạch ngang sau cụm từ “trưởng khoa Vật Lý”. Cách viết như vậy làm cho ý nghĩa bị biến đổi.

Và còn nhiều từ ngữ khác bị dùng sai đến… “thấy thương”. Đó là “bóp méo” ngôn ngữ! Quốc ngữ là “tiếng mẹ đẻ” mà còn dùng sai, sử dụng “xả láng”, thiếu cân nhắc, huống chi khi sử dụng ngoại ngữ là ngôn ngữ của dân tộc khác, cứ lo “dịch” mà bỏ ngữ nghĩa hoặc cách nói của người ta.

Ngôn ngữ thể hiện bản sắc một dân tộc. Sử dụng một cách “vô tội vạ” là làm hư ngôn ngữ, làm mất tính trong sáng của ngôn ngữ. Việt ngữ bị “lệch lạc”, học sinh ngày nay yếu kém vì Việt ngữ đã không được coi trọng và không được dạy đúng mức. Một Việt Nam vẫn hãnh diện là anh hùng với bốn ngàn năm văn hiến mà không có hàn lâm viện nào. Việt Nam có số tiến sĩ nhiều bậc nhất nhì Đông Nam Á mà không chấn chỉnh Việt ngữ. Không chịu hay không thể? Mẹ Việt Nam đau lòng biết bao! Có ai thấy hổ thẹn?

Ngôn ngữ nào cũng có cái “độc đáo” và có “độ khó” riêng. Còn Việt ngữ, ông bà ta so sánh: “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Điều đó chứng tỏ Việt ngữ rất phức tạp – phức tạp mọi thứ. “Đầu gối” hoàn toàn khác “gối đầu”, “nông nỗi” hoàn toàn khác “nông nổi”, “kết cấu” hoàn toàn khác “cấu kết”,… Câu viết được ngắt bằng những dấu “chấm, phẩy”. Câu nói được thể hiện bằng những “ngắt hơi”. “Chấm, phẩy” sai, ngắt câu sai có thể làm biến nghĩa, thậm chí là hoàn toàn trái nghĩa. Vậy mà người ta thích “chấm” thì “chấm”, khoái “phẩy” thì “phẩy”; vui thì viết hoa, buồn thì viết thường; xuống dòng cũng… tùy tiện. Đó chỉ là những “cái nhỏ” nhưng không hề “nhỏ” chút nào!

Ví dụ: “Mỗi gia đình có hai con, vợ chồng hạnh phúc”; nghĩa là “nếu mỗi gia đình có hai (đứa) con thì vợ chồng (sẽ) hạnh phúc”. Nhưng nếu dấu phẩy đặt sau chữ “vợ”, câu nói hoàn toàn biến nghĩa: “Mỗi gia đình có hai con vợ, chồng hạnh phúc”; nghĩa là “nếu mỗi gia đình có hai con (người) vợ thì (người) chồng hạnh phúc”. Thật nguy hiểm!

Một nhà thơ “có tiếng” (Việt Nam) mà phát biểu thế này: “Chọn Tuyên Quang làm ĐỊA CHỈ gặp gỡ đáng nhớ này, chúng tôi muốn diễn đàn Hội nghị là nơi bày tỏ tình cảm và trách nhiệm của các cây bút trẻ tiếp tục một cách xứng đáng truyền thống lịch sử vẻ vang của cách mạng và kháng chiến”. Danh từ “địa chỉ” được dùng không chuẩn xác, đáng lẽ phải là “địa điểm”.

Về các “thì”, Việt ngữ không như ngoại ngữ, đôi khi không cần diễn tả “thì” chính xác, vì thế những từ diễn tả “thì” như “sẽ” và “đã” có thể khiến câu văn thêm cầu kỳ, đôi khi không thực sự cần thiết. Có những trường hợp nên lược bỏ. Liên từ “và” cũng vậy, đừng lạm dụng liên từ này, vì làm câu văn thêm luộm thuộm.

Việt ngữ có những từ… “rắc rối”. Chẳng hạn: Văn sĩ và Thi sĩ là dùng từ Hán Việt, nghĩa là Nhà văn và Nhà thơ. Vậy Nhạc sĩ sao không gọi là “nhà nhạc”? Nhiêu khê quá!

Liên quan vấn đề chữ nghĩa, Kinh Thánh cho biết rằng, vào giữa kỳ lễ Lều, Đức Giêsu lên Đền Thờ Giêrusalem và giảng dạy. Người Do Thái lấy làm ngạc nhiên. Họ nói: “Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!”. Đức Giêsu trả lời: “Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi. Ai muốn làm theo ý của Người thì sẽ biết rằng đạo lý ấy là bởi Thiên Chúa hay do tôi tự mình giảng dạy. Ai tự mình giảng dạy thì tìm vinh quang cho chính mình. Còn ai tìm vinh quang cho Đấng đã sai mình thì là người chân thật, và nơi người ấy không có gì là bất chính” (Ga 7:14-18).

Trình thuật Kinh Thánh ngắn gọn này cho thấy rằng Chúa Giêsu rất coi trọng chữ nghĩa, kỹ lưỡng từng chi tiết, rạch ròi từng dấu ngắt câu. Vì thế, chúng ta càng cần phải lưu ý hơn, vì chúng ta còn nhiều sai lầm và ảo tưởng. Càng phải cân nhắc hơn nếu bạn là người viết lách hoặc sáng tác (thơ, văn, nhạc). Đừng khinh suất, chớ vội vã!

Trong Cựu Ước, ông Gióp biện hộ mà ba người bạn của ông không ai thèm nghe ông. Nhưng khi thấy ba người không còn thốt ra câu trả lời nào nữa, dù họ là người cao niên, ông Ê-li-hu nổi giận và tự nhủ: “Kẻ già mới có quyền ăn nói, người cao tuổi mới dạy lẽ khôn ngoan. Nhưng thực ra sinh khí trong con người, tức hơi thở của Đấng Toàn Năng, mới làm cho hiểu biết. Không phải tuổi tác làm cho người ta được khôn ngoan, và chưa chắc người già cả đã phân biệt được phải trái (G 32:7-9). Rồi ông lên tiếng: “Xin hãy nghe tôi, tôi đây sẽ bày tỏ sự hiểu biết của mình. Này tôi đã chờ đợi lời lẽ của các ông, đã mở tai nghe các ông lý luận; đang lúc các ông tìm tòi chữ nghĩa (G 32:10-11).

Ngoài những từ ngữ bị dùng sai trong tiếng Việt, vẫn thường thấy có những câu văn ngô nghê, tối nghĩa, rất mơ hồ. Danh nhân văn hào R. Tagore nói: “Trò chơi chỉ là trò chơi khi có người chơi nó”. Chữ nghĩa có là trò chơi hay không mà sao người ta dám… “đùa” với nó? Trò chơi có thể là trời cho, nhưng cái gì trời cho chưa chắc là trò chơi!

Chữ phải có nghĩa, không có nghĩa thì còn gì là chữ? Tiền nhân nói chí lý: “Sai một ly, đi một dặm”. Đúng thật!

Thiên Chúa đã nhắc nhở: “Thánh chỉ của Ta, sao ngươi thường nhắc nhở, mở miệng ra là chữ thánh ước trên môi? Nhưng chính ngươi lại ghét điều sửa dạy, lời Ta truyền, đem vất bỏ sau lưng” (Tv 50:16-17). Ước gì chúng ta có thể nói được như tác giả Thánh Vịnh: “Miệng tôi nói lời hay lẽ phải, lòng gẫm suy câu khéo điều khôn, tai lắng nghe nhịp câu ngạn ngữ, mượn phím đàn giải nghĩa nhiệm mầu” (Tv 49:4-5).

Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài (Tv 51:17).

TRẦM THIÊN THU

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …