Home / Chia Sẻ / Chữ CÔNG

Chữ CÔNG

Chữ CÔNG1Chữ “Công” là một trong tứ đức của phụ nữ: Công, Dung, Ngôn, Hạnh. Tất nhiên nam giới cũng không được phép coi thường hoặc khinh suất, đôi khi nam giới còn phải nêu gương trước mới đáng mặt tu mi nam tử.

Nói về phụ nữ, sách Gia Huấn Ca nói: “Xưa nay mấy kẻ dâu hiền – Công, Dung, Ngôn, Hạnh là tiên phàm trần.” Điều đó cho thấy rằng “tứ đức” rất cần cho con người, cách riêng đối với phụ nữ. Theo quan niệm xưa, “Tam Tòng, Tứ Đức” là tiêu chuẩn đối với nữ giới, và “Tam Cương, Ngũ Thường” là tiêu chuẩn đối với nam giới.

  1. TAM TÒNG là ba quy tắc “theo” phải giữ: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. TỨ ĐỨC là bốn đức tính: Công (siêng năng, khéo léo về công việc), Dung (chăm chút, hòa nhã về sắc diện), Ngôn (dịu dàng, nhẹ nhàng về lời nói), Hạnh (nhu mì, kín đáo về tính nết).
  2. TAM CƯƠNG là ba “giềng mối” như “sợi dây” liên kết chắc chắn: ba mối quan hệ giữa vua – tôi, giữa cha – con, giữa vợ – chồng. NGŨ THƯỜNG là năm điều bình thường là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Nói là “bình thường” mà “khác thường” và đặc biệt lắm.

Người ta cũng lưu ý “bộ ba” Quân – Sư – Phụ. Nghĩa là thần dân phải Trung Thành đối với vua, học trò phải Kính Trọng đối với thầy, con cái phải Hiếu Thảo đối với cha mẹ. Theo Nho giáo, chữ Trung còn hơn chữ Kính và Hiếu, thế nên có câu: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.” (Vua bảo bề tôi chết, bề tôi không chết là không trung thành.)

Câu “tam tòng, tứ đức” khuyên phụ nữ trong xã hội cũ phải sống phụ thuộc vào những người bên cạnh mình, không làm gì gây rạn vỡ hạnh phúc gia đình, đồng thời còn phải giữ phẩm hạnh và sắc đẹp để thể hiện sự tôn trọng với mọi người. Tuy nhiên, đó là quan niệm khắt khe thái quá, bất công, thậm chí độc ác, đối với phụ nữ theo quan niệm “trọng nam, khinh nữ” thời phong kiến: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô.” Ngày nay đã khác, nhưng Công, Dung, Ngôn, Hạnh vẫn có giá trị nhất định, vẫn là “khuôn vàng, thước ngọc” vô giá và bất biến.

Là con người, ai cũng phải làm việc và có những công việc khác nhau. Thật vậy, khi tạo dựng vũ trụ và muôn loài, Thiên Chúa làm việc trong sáu ngày, (St 1:1-31) rồi Ngài chỉ nghỉ một ngày. (St 2:1-3; Xh 20:11) Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc.” (Ga 5:17)

Chắc chắn việc gì cũng có cái khó riêng, nghề nào cũng có cái khổ đặc trưng của nó, dù là làm việc bằng đầu óc hoặc chân tay. Ở đây chữ “Công” là nữ công gia chánh, chăm chỉ, chu đáo, đảm đang nội trợ, biết may vá thêu thùa, khéo chăm sóc và nuôi dạy con cái. Chữ “Công” có liên quan Công Phu (gọn gàng, khéo léo, tỉ mỉ, tinh tế) và Công Đức (làm lành, lánh dữ, tu tâm, luyện đức). Theo nghĩa liên quan Công Việc, chữ “Công” cũng được ghép với nhiều chữ khác: công sức, công đức, công trạng, công cán, công lao, công nghiệp, công ơn,… Có lẽ điều cần thiết mà ai cũng mong ước là “công thành danh toại.”

Phụ nữ được gọi là “nội tướng” trong gia đình, quán xuyến mọi việc. Theo kinh nghiệm dân gian, ca dao nói về phụ nữ thế này:

Những người thắt đáy lưng ong,

Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con.

Những người béo trục béo tròn,

Ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày.

Những người mặt nạc, đóm dày,

Mo nang trôi sấp, biết ngày nào khôn!

Xin “mở ngoặc” nhỏ: “Mặt nạc” là phần thịt hai má, trán và cằm nhô ra quá nhiều. “Đóm dày” là củi chẻ dày bản, khó cháy. “Mặt nạc, đóm dày” ý nói người đần độn, và có ý chê bai. “Mo nang” là mặt dày như cái mo cau, úp xuống chứ không ngửa lên, trông thấy ghê gớm. Quả thật, người khôn thì khéo, người ngu thì đần – và người ta thường nói ghép là Khôn Khéo và Ngu Đần.

Sách Gia Huấn Ca nói: “Vá may giữ nếp đàn bà – Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.” Nét tinh tế rất được người xưa chú ý. Nhìn công việc được làm có thể nhận biết người đó như thế nào.

Chữ CÔNG2Suốt chiều dài lịch sử, phụ nữ Việt Nam đã viết nên những trang sử vàng son làm vẻ vang giống nòi dân tộc. Nhiều tấm gương như Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân, Đoàn Thị Điểm, Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương,… là những nữ sĩ tài hoa, một thời nức tiếng lừng danh.

Nói về công lao, tài đức cũng như vẻ đẹp của phụ nữ Việt Nam, không thể tả hết được, tùy giai đoạn lịch sử và hoàn cảnh cụ thể mà nét đẹp được nhấn mạnh ở khía cạnh này hay khía cạnh khác. Nói chung, chữ “Công” là một trong “tứ đức” mà phụ nữ nào cũng cần phải cố gắng để dần dần hoàn thiện mình và trở nên đẹp hơn trong con mắt của người khác.

Làm việc là hành động cần thiết, vừa hoàn thiện chính mình vừa làm lợi cho mình và người khác. Thánh Phaolô nói: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn.” (2 Tx 3:10) Lười biếng không chỉ là lỗi lầm đối với người đời mà còn là tội lỗi đối với Thiên Chúa. Tuy nhiên, làm việc phải đúng lúc, không thể lạm dụng, nhất là đối với Kitô hữu, vì Thiên Chúa truyền lệnh: “Ngươi hãy nhớ ngày sabát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày sabát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi.” (Xh 20:8-10)

Kinh Thánh nói: “Đối với con người, không có gì tốt hơn là ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra! Nhưng chính tôi đã thấy là điều đó cũng do Thiên Chúa mà đến, vì có ai ăn uống, có ai cảm thấy vui mừng phấn khởi mà không nhờ Thiên Chúa ban cho?” (Gv 2:24-25) Tất cả đều là hồng ân!

Chữ “Công” liên quan hai động thái trái ngược: Siêng Năng và Lười Biếng.

  1. Người cha nói với con gái của mình: “Nhà mình sắp nuôi một con heo, cần phân chia công việc, một người cho nó ăn, một người dọn chuồng cho nó, một người tắm cho nó. Con chọn việc gì?”Cô con gái đáp ngay: “Con làm heo.”Kẻ lười biếng chỉ muốn nhàn thân, không muốn bận chân bận tay, chẳng khác dân Biệt Phái bắt người khác làm đủ thứ mà họ không muốn động đến một ngón tay.
  2. Con nhái ở bên ruộng nói với con nhái ở bên vệ đường: “Anh ở đó quá nguy hiểm, dọn qua chỗ tôi mà ở.”Con nhái ở bên vệ đường trả lời: “Tôi quen rồi, dọn nhà làm chi cho vất vả.”Mấy ngày sau con nhái ở bên ruộng đi thăm con nhái bên đường thì thấy nó đã bị xe cán chết. Vì lười biếng mà không nghe lời góp ý chân thành, để rồi chuốc họa vào thân!

Siêng năng là vốn quý của con người. (Cn 12:27b) Kinh Thánh nói: “Kẻ lười biếng có thịt săn cũng không chịu nấu.” (Cn 12:27a) Và còn hơn thế nữa: “Kẻ lười biếng thò tay vào đĩa, nhưng chẳng buồn đưa thức ăn lên miệng.” (Cn 19:24; Cn 26:15) Kẻ lười thì lại ham ăn. (Tt 1:12) Thật kinh dị!

Thiên Chúa không ngừng làm việc, tất nhiên Ngài ghét kẻ lười biếng. Trong dụ ngôn “Những Yến Bạc,” ông chủ đã nguyền rủa đầy tớ đã lãnh một yến: “Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi.” (Mt 25:26-29)

Nhàn cư vi bất thiện. Công việc giúp người ta khỏi nhàm chán và giúp hoàn thiện chính mình. Chuyên cần lao động cũng là cách tu thân – việc làm đầu tiên trong bốn việc cần thiết: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Là Kitô hữu, chúng ta không chỉ phải siêng năng lao động đời thường mà còn phải siêng năng tham dự Thánh Lễ, (Cv 2:42) siêng năng cầu nguyện, (Cl 4:2) siêng năng làm mọi việc lành. (1 Tm 5:10)

Lạy Thiên Chúa, xin gia tăng ân sủng cho chúng con, để chúng con có thể hợp tác với Ngài, và đủ sức làm việc không ngừng trên đường lữ hành trần gian này. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …