Sinh – Tử là quy luật muôn thuở, là con người thì ai cũng phải một lần chết. Nhưng cái chết đó có ý nghĩa hay lãng nhách, điều đó thực sự là vấn đề. Cuộc đời tính bằng chiều sâu và chiều rộng, không tính dài hay ngắn, già hay trẻ. Có những cái chết rất ý nghĩa nhưng lại oan uổng – cái chết của các vị tử đạo, cụ thể là cái chết của ngôn sứ Gioan Tẩy Giả.
Ông chết vì dám nói thật để bảo vệ luân thường đạo lý, gia phong, cách riêng là hôn luật, đó là cái chết vì chính nghĩa. Chính nghĩa là gì? Có lẽ chúng ta hiểu mà khó giải thích. Nói chung, người ta hiểu đó là “lẽ phải”, là “điều mà người ta PHẢI theo, PHẢI giữ”. Chắc hẳn khó có một định nghĩa xác đáng làm thỏa mãn mọi người, tạm hiểu đó là “những-gì-được-công-nhận-theo-lương-tâm-chính-đáng”. Lưu ý là “công nhận” và “lương tâm chính đáng”, vì không thể chấp nhận “lương tâm lệch lạc”. Xã hội ngày nay đang mất dần điều này, và người ta trở thành vô cảm.
Cổ nhân nói: “Nhân dục thắng, thiên lý vong” – sự ham muốn của con người mà thắng thì lẽ công (trời) sẽ bị mất. Vụ án Gioan Tẩy Giả cho thấy rõ điều đó, ông là “dân oan” thứ thiệt, bởi vì có ba kẻ nham hiểm cấu kết với nhau để sát hại người công chính. Thật đáng sợ! Kinh Thánh khuyên: “Chân lý và khôn ngoan, nghiêm huấn và hiểu biết, con hãy mua lấy chứ đừng bán đi” (Cn 23:23).
Theo ý nghĩa chung, chính nghĩa là công lý (justice, bons sens), liên quan rất gần với sự thật và lẽ phải. Chính nghĩa cũng đa dạng: Chính nghĩa dân tộc, chính nghĩa tôn giáo, chính nghĩa cá nhân, chính nghĩa độc tài, chính nghĩa tự do, chính nghĩa cộng sản, chính nghĩa tư bản, chính nghĩa dân chủ, chính nghĩa chuyên chế,…Chính nghĩa đa dạng lắm. Ở đây, chúng ta không đủ trình độ để nói về đa dạng chính nghĩa, nên chúng ta chỉ nói vế chính nghĩa chân lý – chính nghĩa của Thiên Chúa.
Thật không dễ để sống ngay thẳng, bởi vì ai thật thà thẳng thắn tì bị người ta thấy “khó ưa”, thế nên phải có lòng can đảm thực sự. Thánh Vịnh gia nói: “Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng. Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. CHÍNH NGHĨA (của) bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, CÔNG LÝ (của) bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ” (Tv 37:4-6). Theo đó, “chính nghĩa” và “công lý” không xa nhau – nếu hiểu theo nghĩa Kinh Thánh.
Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả là “dị nhân ngoại hạng”, có một số “điểm lạ” (x. Lc 1:5-23), chẳng hạn ông là “con cầu con khấn” của ông Dacaria (tư tế đền thờ Giêrusalem) và bà Êlidabét (chị họ của Đức Maria). Ông là anh họ và chỉ hơn Chúa Giêsu 6 tháng tuổi, là “dấu cộng” của Cựu ước và Tân ước,là người số ng “bụi đời” chẳng giống ai: ÁO LÔNG LẠC ĐÀ và THẮT LƯNG BẰNG DÂY DA; ẩm thực của ông cũng khác người: CHÂU CHẤU và MẬT ONG RỪNG (Mt 3:4; Mc 1:6). Ông là một con người rất đặc biệt của Thiên Chúa, một “dị nhân” tuyệt vời chứ không kỳ quặc.
Ông “khác người” đủ thứ, từ tính tình đến phong cách, chẳng cần nói gì với ai (ở trong hoang địa mà). Bản tính ông là “thích thẳng thắn”, thế nên ông cũng bị “thua thiệt”(bị ghét tới mức bị giết chết, y như “chú em” Giêsu vậy) – nói theo kiểu bình dân của người miền Bắc là “thua tất tần tật” hoặc của người miền Nam là “thua tuốt luốt” – kiểu nào cũng lắm chữ T (âm TỜ mà chữ TÊ). Cũng là lẽ tất nhiên thôi. Đời vốn như thế mà! Biết rõ như vậy, nhưng ông nhất định không a dua, không xu nịnh, không tâng bốc bất cứ ai, quyết tâm bảo vệ LẼ PHẢI và CÔNG LÝ tới cùng, theo cách mô tả của ca dao Việt Nam: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”. Ông là ngôn sứ luôn sống và đấu tranh cho chính nghĩa của Thiên Chúa, chắc chắn con người như thế phải là người công chính.
Như đã nói, Thánh Gioan Tẩy Giả là “dị nhân” chính hiệu, khác người từ bên trong đến bên ngoài. Tuy nhiên, ông không cố ý tạo “phong cách” đó để tỏ ra “chơi nổi” hoặc “gây chú ý”, mà ông thật lòng khiêm nhường, không cần gì bề ngoài, và ông làm mọi thứ chỉ để tôn vinh Thiên Chúa. Chính ông đã xác định: “Người [Chúa Giêsu] phải NỔI BẬT lên, còn tôi phải LU MỜ đi” (Ga 3:30). Câu nói này khiến mỗi chúng ta phải tự “sờ gáy” mình. Thánh Gioan sống như vậy chứng tỏ ông là người rất khôn ngoan: Chọn ích lợi cho Chúa, không chọn ích lợi cho mình hoặc cho ai khác. Độc đạo, độc hướng, và tuyệt đối!
Ai cũng biết rằng Đức Khôn Ngoan là vô giá. Tại sao vậy? Kinh Thánh xác nhận: “Đức Khôn Ngoan quý trọng hơn cả vương trượng, ngai vàng, trân châu bảo ngọc; so với Đức Khôn Ngoan, vàng trên cả thế giới cũng chỉ là cát bụi, và bạc cũng kể như bùn đất” (Kn 7:8-9). Đời người rất cần sự khôn ngoan, thiếu đức tính này rất nguy hiểm: “Người thiếu khôn ngoan là kẻ ngu đần” (Hc 19:23). Thế thì tiêu!
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã truyền lệnh cho ngôn sứ Giêrêmia: “Còn ngươi, ngươi hãy thắt lưng. Hãy chỗi dậy! Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi ĐỪNG RUN SỢ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ LÀM CHO NGƯƠI RUN SỢ LUÔN” (Gr 1:17). Thắt lưng, chỗi dậy, nói và không sợ – một loạt các động từ cần thực hiện một lượt. Phải dứt khoát mới khả thi. Không can đảm “đứng thẳng” theo lời Chúa mà lại “khom lưng” thì… chết chắc, vì sẽ bị phản tác dụng. Cái gì phản tác dụng hoặc phản ứng phụ thì đều nguy hiểm. Khôn thì nghe theo, dại thì chết chắc!
Khôn ngoan mà vâng lời thì mọi chuyện xuôi chèo mát mái, sức khỏe chợt phi thường, vì sức mạnh đó là sức mạnh của Thiên Chúa, Đấng toàn năng uy dũng. Thật vậy, Ngài hứa chắc: “Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ. Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì CÓ TA Ở VỚI NGƯƠI ĐỂ GIẢI THOÁT NGƯƠI” (Gr 1:18-19).
Thật là khôn ngoan khi Thánh Vịnh gia đã nhận thức rạch ròi: “Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời” (Tv 118:9). Một khi đã ẩn náu nơi Chúa thì phải tín thác vào Ngài, đừng “chân trong, chân ngoài”, lập lờ nước đôi. Thế mà trong thực tế vẫn thấy có những người nói tin Chúa nhưng vẫn coi trọng tiền bạc, nếu vậy chỉ là giả vờ hoặc giả hình. Họ bị Thiên Chúa và chính nhân cảm thấy ghê tởm, sợ hãi và nhạo cười: “Nó đích thị là người chẳng lấy Chúa làm nơi ẩn náu, nhưng CHỈ TIN CẬY VÀO ĐỐNG TIỀN ĐỐNG CỦA và KHOE KHOANG MƯU ĐỘC của mình” (Tv 52:9). Ôi chao, kinh khủng quá đi thôi!
Không mùi vị và bất động, nhưng tiền bạc lại có mãnh lực khó cưỡng lại, thậm chí nó còn có ma lực, thế nên người ta vẫn coi nó là một vị thần: Thần Tài. Thật không dễ gì thoát khỏi vòng kiềm tỏa của nó. Ngay cả các giáo sĩ và tu sĩ, đã thề sống thề chết với Chúa, thế mà có những người cứ ngửi thấy mùi tiền là cười tít mắt. Thật đấy, chẳng oan đâu! Không thể kể hết loại này từ dạng “nặng” tới dạng “nhẹ”, mức độ nào cũng có. Đã có mấy ai thật lòng dám “bụi đời” và dám thể hiện lối sống đơn nghèo như Gioan Tẩy Giả? Hay là chỉ lẻo mép, khoe mẽ? Ngày nay người ta “tinh vi” và có nhiều cách biện hộ “khéo léo” lắm. Thực tế đã và đang cho chúng ta thấy rõ!
Vì thế, cần phải mở mắt to để dám nhận sai lầm mà có thể nói được như Thánh Vịnh gia: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Vì Ngài công chính, xin cứu vớt và giải thoát con, ghé tai nghe và thương cứu độ. Xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để cứu độ con, núi đá và thành trì bảo vệ con, chính là Ngài” (Tv 71:1-3). Đúng vậy, phải NHÌN cho kỹ, chớ NGHE bằng tai!
Quả thật, không hề dễ dàng chút nào, vì đôi khi người ta cảm thấy… ngại lắm! Thế nhưng nếu nói được như vậy mà không hổ thẹn thì mới “đáng mặt anh hùng”, và có thể chân thành cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin giải thoát con khỏi bàn tay kẻ dữ, khỏi móng vuốt phường nham hiểm và bọn dã man. Vì lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con TRÔNG ĐỢI, lạy Đức Chúa, chính Ngài là Đấng con TIN TƯỞNG ngay từ độ thanh xuân. Từ thuở sơ sinh, con NƯƠNG TỰA vào Ngài, Ngài đã kéo con ra khỏi lòng mẹ, con CA TỤNG Ngài chẳng khi ngơi” (Tv 71:4-6). Thế thì thật tốt!
Bất cứ người nào khôn ngoan mà tín thác vào Chúa thì khả dĩ nhận biết mọi thứ đều là hồng ân, và rồi họ không thể không nói ra: “Miệng con công bố Ngài chính trực, suốt ngày tường thuật ơn cứu độ Ngài ban, ơn của Ngài, nhiều khôn xiết kể!” (Tv 71:15). Người khôn ngoan thật và không tin cậy gì khác ngoài Chúa, rồi họ không thể giấu giếm và không ngại thổ lộ: “Từ độ thanh xuân, lạy Thiên Chúa, con đã được Ngài thương dạy dỗ. Tới giờ này, con vẫn truyền rao vĩ nghiệp của Ngài” (Tv 71:17). Tất cả chỉ để Thiên Chúa được vinh danh mà thôi.
Họ thể hiện điều đó ở mọi nơi và mọi lúc, chứ không phải khi vui thì theo, lúc buồn thì nghỉ. Người Việt có câu: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Có “bị” thử lửa mới biết là vàng hay thau, bạc hay chì. Khi chúng ta cười thì nhiều người vỗ tay, khi chúng ta khóc thì chẳng thấy ma nào ở gần! Cuộc đời cho chúng ta thấy rõ chân tướng thực dụng và xảo trá. Hãy luôn nhớ rằng: Người bạn chân thành là người ở bên ta trong lúc ta đau khổ và tuyệt vọng nhất, ngoài ra chỉ là “bè” chứ không là “bạn”. Vì thế, trong việc “theo Chúa” cũng không ngoại trừ: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:10). Kiên trì theo Chúa, dù vui hay buồn, chứ không tùy hứng thất thường theo thời tiết. Nhiều vị thánh đã từng âm thầm chịu đau khổ khi phải sống những ngày tháng đen tối trong tâm hồn, nhưng họ không đầu hàng, thế mới nên thánh.
Tục ngữ Việt Nam so sánh: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Còn Chúa Giêsu đã so sánh cực cấp: “KHÔNG có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã HY SINH TÍNH MẠNG vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Người đầu tiên là chính là Ngài, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng đã hiến thân vì các tội nhân chúng ta. Thánh Gioan Tẩy Giả không là người thí mạng vì người khác, nhưng ông đã liều chết vì Sự Thật, vì Lẽ Phải, vì Công Lý, vì Chính Nghĩa. Đó cũng là cái chết vì Chúa, cũng là một dạng tử đạo.
Quả thật như vậy, chính Chúa Giêsu đã minh định: “Tôi là CON ĐƯỜNG, là SỰ THẬT và là SỰ SỐNG” (Ga 14:6). Và rồi cũng chính Ngài đã xác nhận trước mặt Tổng trấn Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Đó là mục đích cao cả đối với bất cứ ai.
Thật kỳ cục, khi nghe Chúa Giêsu nói vậy thì ông Philatô hỏi lại: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38). Ngớ ngẩn, dớ dẩn và vớ vẩn. Ông ta “giả nai”, né tránh, hay thực sự không biết? Ngày nay cũng không thiếu những người mang “loại máu” của Philatô nên vẫn “vô tư” hành động y như vậy. Đó là loại máu NN – Ngớ Ngẩn hoặc Nghi Ngờ.
Sự thật thì hay mất lòng, thuận ngôn thì hay nghịch nhĩ. Ông Hêrôđê nghe những lời “khó lọt tai” nên đã sai người đi bắt ông Gioan và xiềng xích ông trong ngục tối. Lý do là vì ông đã lấy bà Hêrôđia, vợ của người anh là Philípphê. Đó là tội loạn luân. Chắc hẳn phụ nữ này là “gái một con trông mòn con mắt” nên ông Hêrôđê đã “hoa mắt” và bất chấp tất cả. Có điều quái gở là chính phụ nữ này cũng khoái vì đã có thể “cưa đổ” một quốc vương, và cũng quái lạ nữa là cô con gái của bà ta cũng vào hùa với người mẹ và ông chú – phe của ma quỷ.
Cái tội “đáng án tử” của ông Gioan là dám can ngăn vua: “Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!” (Mc 6:18). Rõ ràng bà Hêrôđia có thể một phần do “phải lòng” ông Hêrôđê, một phần vì tự ái phụ nữ bốc lên tới chỏm đầu. Phụ nữ thường tự ái cao vì không ai chịu kém sắc người khác, bà ta đâu thèm “cưa” mấy đám quan lại triều đình mà “cưa” chính nhà vua, thế nên bà ta mới CĂM THÙ và MUỐN GIẾT ông Gioan, nhưng không được. Tự ái dồn dập, máu tức giận bốc cao như núi lửa hừng hực phun trào. Phụ nữ muốn là trời muốn mà! Và còn hơn thế nữa, như người ta thường ví von: “Nhất vợ, nhì trời”. Thậm chí bồ nhí còn “to” hơn vợ. Do đó, “phở” vẫn ngon hơn “cơm” là thế đấy!
Chính vua Hêrôđê biết chắc ông Gioan là người công chính, sống thánh thiện, thế nên ông ta ái ngại, và còn che chở ông Gioan nữa. Nghe ông Gioan nói, ông Hêrôđê rất PHÂN VÂN, nhưng lại cứ THÍCH NGHE. Nhưng loại tình yêu gian tà khiến ông ta điên đảo và mù quáng, biết rõ ông Gioan công chính mà KHÔNG DÁM BẢO VỆ. Hèn nhát ở chỗ đó! Ngày nay, hạng người như Hêrôđê cũng chẳng thiếu đâu, nhưng người thời @ có “phong cách” bí hiểm hơn nhiều, nói theo ngôn ngữ bình dân mà người thường gọi là “ném đá giấu tay” hoặc “giật dây”. Nham hiểm quá, kinh khiếp thật, cái tròng bẫy của ma quỷ rất khó phát hiện!
Vả lại, lòng gian tà như sóng ngầm cứ cuồn cuộn chảy, chưa thực hiện được thì chưa thỏa chí. Thế rồi vào một ngày thuận lợi. Đó là dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hêrôđê mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào nhân sĩ trong vùng Galilê. Trong đám tiệc, con gái bà Hêrôđia biểu diễn một điệu vũ khiến cho nhà vua và khách dự tiệc thích thú lắm. Nhìn thì mãn nhãn, nghe thì mãn nhĩ. Thế thì còn gì bằng!
Thông thường, tiệc vui thì hẳn có ba hớp, có lẽ nhà vua ngà ngà rồi hứng thú nói với cô gái: “Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con” (Mc 6:22). Thậm chí vua lại còn thề: “Con xin gì, ta cũng cho, dù MỘT NỬA NƯỚC của ta cũng được” (Mc 6:23). Lạy Chúa tôi, dám bán nước cho một đứa con gái nhãi ranh! Lão già dê Hêrôđê này không phải là tay vừa: Mê đắm mẹ mà vẫn khoái đứa con gái của mẹ nó. Lời say nói ngay nhưng tác hại vô cùng, đúng là “rượu như rắn cắn, như nọc độc hổ mang” (Cn 23:32).
Sau khi nghe “ông chú đáng yêu” Hêrôđê hứa như vậy, cô gái hí hửng đi hỏi mẹ xem nên xin gì. Mẹ cô lạnh lùng gằn giọng chắc nịch: “Đầu Gioan Tẩy Giả” (Mc 6:24b). Gớm thật, phụ nữ nham hiểm còn hơn đàn ông. Sóng ngầm mà! Càng nham hiểm hơn khi hai cái đầu phụ nữ hợp lại. Đúng như khoa tâm lý phát hiện: “Khoảng giữa cái muốn và cái không muốn ở phụ nữ, dù chỉ một sợi tóc cũng không lọt”. Lập tức cô vội trở vào đến bên nhà vua và nỉ non tâu xin ngay: “Con muốn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan Tẩy Giả đặt trên mâm” (Mc 6:25). Nghe vậy, nhà vua giật mình và buồn lắm, nhưng vì đã TRÓT THỀ, lại thề công khai trước các thực khách nên ông muốn chứng tỏ bản lĩnh nam nhi, không muốn thất hứa với cô. Bản chất hèn nhát thể hiện rõ ràng, không giấu đi đâu được!
Cũng chỉ vì sĩ diện, ông lập tức sai thị vệ đi lấythủ cấp của ông Gioan. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ. Bi kịch kết thúc não nề. Bi kịch về cái chết của ông Gioan là chuyện bình thường, bi kịch về lòng người độc ác dành cho nhau mới đáng quan ngại!
Thật đáng sợ khi sự thật bị che khuất, lẽ phải bị bóp méo, công lý bị chà đạp, chính nghĩa bị lệch lạc. Không chỉ vậy, người ta cũng vẫn thường xuyên thiếu tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền – đủ dạng và đủ mức độ. Đó là bi kịch của con người tự tạo ra chỉ vì hướng theo cái xấu để thỏa mãn ý riêng. Và người ta cũng luôn có đủ lý lẽ để tự biện hộ cho những động thái sai trái của mình, không muốn phục thiện.
Cuộc sống luôn có những vấn đề đáng quan ngại có liên quan chính nghĩa, sự thật, lẽ phải, công lý, công bình,… Một trong các vấn đề liên quan là vấn đề TỰ DO TÍN NGƯỠNG. Trước đây, theo lời mời của chính phủ Việt Nam, ông Heiner Bielefeldt – báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng – đã có chuyến viếng thăm Việt Nam từ 21 đến 31-7-2014. Trong tuyên bố báo chí 13 trang bằng Anh ngữ và Việt ngữ, ông Heiner Bielefeldt đã thẳng thắn phê phán việc ông “bị” công an “giám sát chặt”, và một số người ông muốn gặp đều “bị đe dọa, sách nhiễu”. Ông cho biết rằng thực tế vẫn có “vi phạm nghiêm trọng” về tôn giáo tại Việt Nam, mặc dù Việt Nam đã có “một số chuyển biến tích cực”. Sự thật mãi là sự thật, không thể che giấu, cũng không thể bóp méo hoặc viện cớ bất kỳ lý do nào!
Một động thái không dễ thực hiện là “thà chết vinh hơn sống nhục”. Ngày xưa, danh tướng Trần Bình Trọng đã bất khuất dù bị giặc bắt, và ông vẫn khẳng khái tuyên bố: “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Ông chết vì chính nghĩa, vì đại nghĩa. Cái chết của Thánh Gioan Tẩy Giả cũng là cái chết vì chính nghĩa. Đó là tiếng chuông cảnh báo về tình trạng sa sút đạo đức của xã hội loài người – nói chung, của Việt Nam – nói riêng. Đó là tiếng chuông cảnh tỉnh những tâm hồn mê muội, là lời thúc giục sám hối và tin yêu,như Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Nước Trời đã đến gần” (Mt 3:2; Mt 4:17).
Cái chết của ngôn sứ Gioan Tẩy Giả là cái chết OAN nhưng không UỔNG, mà lại đầy Ý NGHĨA. Ở đời, làm tiểu nhân rất dễ, làm quân tử mới khó biết bao! Theo Đức Khổng Tử, đây là bí quyết: “Đạo làm quân tử có BỐN điều đúng: Mạnh dạn khi làm điều nghĩa, nhũn nhặn khi nghe lời can gián, lo nghĩ khi nhận bổng lộc, và cẩn thận đối với việc sửa mình; đời có BỐN cái lo: Lo đức ít mà được sủng ái nhiều, lo công lập được ít mà được hưởng nhiều bổng lộc”. Cả đời tiến hóa mà con thú không thể trở thành con người, nhưng chỉ trong phút chốc, con người có thể trở nên như thú vật.
Lạy Thiên Chúa nhân từ, xin tha thứ cho chúng con vì đã nhiều lần hèn nhát khi đối diện sự thật chính đáng, xin ban trái tim mới cho chúng con, xin đổ đầy niềm yêu mến chân lý vào trái tim chúng con, để chúng con can đảm nói sự thật, đấu tranh cho chính nghĩa, bảo vệ công lý và công bình.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin thương cầu thay nguyện giúp và luôn đồng hành với chúng con, những người yếu đuối đang miệt mài lữ hành trên đường trần nhiều cạm bẫy và nhiềumưu mô xảo quyệt này.Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU