Home / Chia Sẻ / Bình an và Hy vọng

Bình an và Hy vọng

 

BinhAn & HyVongLần đầu tiên gặp các môn đệ sau khi Đức Giêsu Kitô phục sinh, lời chúc bình an là câu nói đầu tiên của Ngài: “Bình an cho anh em” (Lc 24:36; Ga 20:19; Ga 20:21). Tám ngày sau, Ngài gặp lại các môn đệ và cũng chúc: “Bình an cho anh em” (Ga 20:26). Quả thật, sự bình an rất quan trọng đối với bất kỳ ai và bất cứ lúc nào – cả tinh thần, thể lý, và xã hội.

Khi gặp nhau, chúng ta thường hỏi: “Có khỏe không?”. Hỏi về sức khỏe nhưng thực chất là nói về sự bình an, đơn giản là bình an về thể lý. Khi hỏi thăm ai về người nào đó mà lâu ngày chúng ta không gặp, chúng ta cũng hỏi: “Người ấy có khỏe không, có bình an không?”. Khi ai đó đi xa, chúng ta cũng luôn cầu chúc: “Thượng lộ bình an”. Thậm chí người ta còn cầu chúc cho người quá cố: “Xin cho linh hồn này được nghỉ yên muôn đời”. Chắc chăn sự bình an vô cùng cần thiết.

Sự bình an và niềm hy vọng có liên quan lẫn nhau. Có được sống trong sự bình an thì người ta mới hy vọng tràn trề. Không có bình an thì ước mơ chẳng khác gì chuyện hão huyền, mơ cũng chẳng bao giờ thấy. Tương tự, một đất nước không có nền hòa bình thực sự thì niềm hy vọng của người dân chẳng khác gì xa xỉ phẩm, họ khao khát mà không thể có được. Thật tội nghiệp cho người dân ở các nước thiếu hòa bình, hoặc tương đối có hòa bình mà không trọn vẹn. Hòa bình đó là hòa-bình-ảo!

SỰ BÌNH AN

Sự bình an còn gọi là an bình, bình yên, hoặc yên bình. Đó là trạng thái thanh thản, cảm giác an hòa, thanh bình. Sự bình an có hai dạng: Bình an tâm hồn và bình an thể lý. Có thể có một dạng nữa là bình an xã hội, bình an đất nước – gọi là hòa bình.

Bình an tâm hồn là không bị dao động, lương tâm trong sạch, không đam mê cái xấu, sạch tội, không bon chen, không so đo, không giận hờn, không ghen tương, không đố kỵ, không phiền muộn,… Bình an thể lý là không bệnh tật, ăn ngon, dễ ngủ,… Bình an xã hội là không sợ bị trộm cướp, không sợ bị hại, không lo bị dòm ngó,…

Danh nhân Mahatma Gandhi, một chính khách chủ trương bất bạo động được dân Ấn Độ coi là “cha già” và thánh nhân, đã nhận xét về sự bình an: “Mỗi người đều phải tìm thấy sự bình an từ bên trong bản thân mình. Sự bình an thực sự phải không bị ảnh hưởng bởi ngoại tại” (Each one has to find his peace from within. Peace to be real must be unaffected by outside circumstances). Thời xưa cũng quan niệm tương tự: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Mọi sự phải được bắt đầu từ chính mình vậy!

Sự bình an quan trọng hơn sự giàu sang hoặc nghèo khó. Giàu sang mà bất an thì cũng vô ích, ngồi trên đống vàng mà lòng như lửa đốt thì có vui không? Người giàu cũng khóc kia mà! Ngược lại, nghèo khó mà lòng thanh thản, không nợ nần, dù không được ăn ngon và mặc đẹp như người khác, thế là được bình an rồi. Lão Tử đã nhận định: “Tri túc chi túc, hà thời túc; tri nhàn chi nhàn, hà thời nhàn” (Biết đủ là đủ, tức là đủ; biết nhàn là nhàn, tức là nhàn). Nhàn ở đây không có nghĩa là “ngồi không”, bởi vì thể xác nhàn nhưng chưa chắc tâm hồn nhàn. Nhàn phải mang nghĩa thanh thản cả thể lý lẫn tâm hồn. Như vậy mới là bình an. Đó là sự bình an cần thiết.

Đất nước nào có hòa bình thực sự thì mới hưng thịnh. Muốn hòa bình thực sự thì chính phủ phải là một “bộ máy yêu thương”, nghĩa là chính phủ biết thương dân, thương nước, không tham nhũng, không hối lộ. Trong thi phẩm “Chữ Nhàn”, cụ Nguyễn Công Trứ đặt vấn đề: “Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc; tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn?”. Nghĩa là: “Biết đủ là đủ, đợi cho đủ thì bao giờ mới đủ; biết nhàn là nhàn, đợi cho nhàn thì bao giờ mới nhàn?”.

Vua Trần Nhân Tông định nghĩa chữ Nhàn là không màng công danh phú quý, là hơn tất cả mọi thứ. Trong một thi phẩm Hán tự, ông viết câu kết: “Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn kim”. Vạn kim là mười ngàn lượng vàng, là giàu sang phú quý. Nghĩa là “hai chữ thanh nhàn hơn cả sự giàu sang phú quý”. Đó mới là “nhàn” đúng nghĩa, nhàn như vậy mới là sự bình an đích thực. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh bộc bạch: Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn” (Tv 4:9).

Khi Con Một Thiên Chúa giáng sinh làm người nơi hang Belem đơn nghèo, muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14). Trong thời gian thực hiện sứ vụ, Chúa Giêsu căn dặn những người được sai đi truyền giáo: “Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy” (Mt 10:12; Lc 10:5). Ngay cả những khi chữa lành bệnh hoặc tha tội cho ai, Chúa Giêsu đều nói với họ: “Hãy đi bình an” (Lc 7:50; Lc 8:48).

Sự bình an cũng có ý nghĩa khác nhau. Sự bình an của Thiên Chúa khác hẳn với sự bình an của loài người, như Chúa Giêsu đã xác định: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi!” (Ga 14:27). Ngài không giải thích về sự khác nhau thế nào, nhưng Ngài động viên chúng ta. Ngài biết chúng ta sẽ ngạc nhiên, nhưng Ngài muốn để chúng ta tự cảm nghiệm, nhờ đó mà Đức Tin của chúng ta mới được thanh luyện.

Chữ “bình an” được đề cập nhiều lần xuyên suốt Kinh Thánh – dù trực tiếp hoặc gián tiếp. Sau khi con trẻ Gioan ra đời, mọi người đều lấy làm lạ và chia vui, ông Da-ca-ri-a liền ứng khẩu cảm tác bài ca “Chúc Tụng” (Benedictus): “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1:78-79).

Được bình an là hạnh phúc. Chia sẻ bình an còn hạnh phúc hơn, vì đó là một trong Bát Phúc mà Chúa Giêsu đưa ra trong bài giảng thứ nhất, khởi đầu công khai sứ vụ của Ngài: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9).

Có câu chuyện liên quan sự bình an như thế này…

Một hôm, Tô Đông Pha đến chơi nhà chùa và cùng ngồi thiền với một nhà sư. Trong khi ngồi thiền, Tô thấy an lạc xuất hiện. Xả thiền xong, Tô rất vui vẻ hỏi nhà sư: “Ngài thấy tôi ngồi thiền như thế giống cái gì?”. Nhà sư ôn tồn: “Trông ngài giống như Đức Phật”. Tô nghe thế thì vui lắm. Thiền sư hỏi lại: “Thế ngài thấy tôi ngồi thiền giống cái gì?”. Tô đáp ngay: “Trông ngài ngồi thiền giống một đống phân bò.

Thiền sư nghe nói vậy mà lòng vẫn bình an. Tô Đông Pha cười suốt dọc đường về và thầm nghĩ: “Hôm nay ta đã thắng lão hòa thượng đó một phen rồi. Bị ta nói là đống phân bò mà không bẻ lại được câu nào cả”. Tô về khoe với Tô tiểu muội: “Hôm nay huynh đã qua mặt được lão sư già đó rồi!”. Tô muội hỏi chuyện gì. Tô huynh hào hứng kể lại chi tiết đầu đuôi. Tô muội cười ồ lên, Tô huynh đắc chí nên càng hào hứng kể. Chợt ngưng cười, Tô muội nói: “Muội cười là cười huynh đó, huynh lại thua lão hòa thượng ấy rồi!”.

Tô huynh ngạc nhiên hỏi thế là thế nào. Tô muội phân tích: “Tâm lão hòa thượng là tâm Phật, nên thấy huynh cũng giống như Phật. Còn tâm của huynh thì toàn phân bò, nên huynh thấy hòa thượng giống như đống phân bò. Tâm huynh như thế làm sao mà bằng được tâm lão hòa thượng chứ?”. Tô huynh ngộ ra và tiu nghỉu!

Thiền sư có cái tâm chân chính nên thấy người khác cũng tốt, cái tâm của thiền sư là tâm bình an. Còn Tô Đông Pha có cái tâm bất chính nên thấy người khác cũng xấu, cái tâm của Tô là tâm bất an, chỉ tìm mọi cách để chê trách người khác, kiểu “vạch lá tìm sâu” hoặc “bới bèo ra bọ”. Dạng tâm địa như vậy không thể sống bình an được!

Câu chuyện này “nhắc khéo” chúng ta về “chữ Tâm”, về cách đối nhân xử thế, cách nhìn người. Tục ngữ có câu: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Ca dao cũng ví von: “Thế gian lắm kẻ mơ màng, thấy người toét mắt tưởng vàng ăn ra”. Lão giáo còn mệnh danh là “Đạo Vô Vi”. Động thái vô vi rất khó, ngay khi bạn nghĩ bạn vô vi là bạn đã không vô vi rồi! Càng thoát tục thì người ta càng được hưởng bình an, nhưng chỉ có Thiên Quốc mới nền hòa bình thực sự và vĩnh cửu. Trần gian muốn hưởng sự bình an thì phải bảo vệ và duy trì công lý: “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” (Tv 72:7).

Hằng ngày, mỗi khi tham dự Thánh lễ, sau hai lần xin Thiên Chúa thương xót, chúng ta tiếp tục xin Ngài ban bình an: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin ban bình an cho chúng con”. Kết thúc Thánh lễ cũng là một lời chúc bình an. Vâng, ơn bình an vô cùng quan trọng đối với cuộc lữ hành trần gian này, nhờ có sự bình an mà chúng ta tiếp tục sống trong niềm hy vọng. Khi sống, ai cũng mong được bình an, khi chết cũng mong được bình an để có thể thanh thản giã biệt thế gian, hy vọng được hưởng sự bình an của Nước Trời vĩnh hằng.

NIỀM HY VỌNG

Hy vọng là Đức Cậy, một trong ba nhân đức đối thần. Hy vọng liên quan sự lạc quan. Có thể chia loài người thành hai loại: Người lạc quan và người bi quan. Người lạc quan có thể “vô tư” (theo nghĩa tích cực), nhìn mọi thứ qua lăng kính màu hồng sáng; còn người bi quan có thể dễ yếm thế, nhìn mọi thứ qua lăng kính ảm đạm. Hai người cùng nhìn qua cửa sồ, người thì thấy ánh nắng, người thì thấy bùn đen!

Ngày hôm qua là cảnh mộng, ngày mai là ước mơ, nhưng ngày hôm nay sống tốt sẽ khiến mỗi ngày qua đi là một giấc mơ hạnh phúc, và mỗi ngày mai là giấc mơ hy vọng. Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã có quyết tâm tích cực: “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, chọn những bông hoa và những nụ cười… Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi, đường đến anh em, đường đến bạn bè… Và như thế tôi sống vui từng ngày, và như thế tôi đến trong cuộc đời, đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi… Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, cùng với anh em tìm đến mọi người…” (Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui). Ca từ đầy chất nhân bản, phù hợp với Đức Ái Kitô giáo. Đẹp lắm!

Cuộc sống nhiêu khê nhưng cần cố gắng đối với bốn động thái tích cực này: (1) Nhìn lại phía sau để rút kinh nghiệm, (2) nhìn lên phía trước để luôn hy vọng, (3) nhìn ra xung quanh để nhận biết thực tế, (4) nhìn vào nội tâm để nhận diện chính mình. Ông Thomas Carlyle (1795-1881, triết gia và sử gia Anh quốc) nhận xét: “Người có sức khỏe thì có hy vọng, người có hy vọng sẽ có tất cả mọi thứ. Ở đây, “sức khỏe” nên hiểu theo hai nghĩa: Sức khỏe thể lý và sức khỏe tinh thần. Như vậy sức khỏe mới trọn vẹn.

Tương tự, một danh nhân đã nói: “Nếu bạn cảm thấy sợ hãi về điều sẽ xảy ra, đừng sợ! Hãy ôm lấy sự không chắc chắn và để nó dẫn bạn đi. Hãy cản đảm khi đời thách thức bạn sử dụng cả con tim và trí óc để mở ra con đường dẫn tới hạnh phúc của riêng mình, đừng lãng phí thời gian trong tiếc nuối. Bật sức mạnh vào hành động tiếp theo. Hãy tận hưởng hiện tại khi nó tới, tận hưởng từng giây phút, bởi vì bạn sẽ không bao giờ có lại thời khắc đó nữa. Nếu có lúc nào đó bạn ngước lên và thấy mình lạc lối, hãy hít thở sâu và bắt đầu lại. Đi ngược theo bước chân mình và quay trở về nơi tinh khiết nhất trong trái tim, nơi hy vọng tồn tại. Rồi bạn sẽ lại tìm thấy con đường”.

Vâng, hy vọng luôn mở ra những con đường, đặc biệt là “con đường sống”. Và con-đường-sống đó chính là Đức Kitô, vì Ngài đã xác định: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Hãy chú ý hành trình của mình: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14; Lc 13:24). Bà Helen Keller (1880-1968, tác giả và chính khách Hoa Kỳ) phân tích: “Chúng ta bảo tình yêu là sự sống, nhưng tình yêu không có hy vọng và niềm tin thì chỉ là cái chết đau đớn. Cẩn tắc vô ưu!

Trước khi qua đời, ông Mát-tít-gia căn dặn các con: “Các con hãy tâm niệm rằng: từ đời này qua đời khác, hết những ai đặt hy vọng vào Thiên Chúa sẽ không bị suy tàn” (1 Mcb 2:61). Chắc chắn là vậy. Người sắp chết luôn nói thật để người khác có kinh nghiệm sống, vì họ biết họ không còn dịp để làm lại cuộc đời nữa!

Chắc hẳn các Kitô hữu còn nhớ chuyện người mẹ và bảy người con trai bị vua An-ti-ô-khô hành quyết vì họ quyết bảo vệ Đức Tin tới giọt máu cuối cùng. Khi đến lượt người thứ ba bị tra tấn, vừa được yêu cầu anh liền thè lưỡi, anh can đảm đưa tay ra và khẳng khái nói: “Tôi có được lưỡi này, tay này, là do Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó, và tôi hy vọng nhờ Chúa Trời, tôi sẽ lấy lại được” (2 Mcb 7:11). Tinh thần Kitô giáo vô cùng bất khuất! Chính Đức Cậy (niềm hy vọng) đã giúp họ giữ vững Đức Tin vì yêu mến Thiên Chúa (Đức Mến). Một Tam-Giác-Đối-Thần tuyệt vời, luôn nối kết chặt chẽ với nhau. Rất lô-gích! Thánh Phaolô nói: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13:7).

Kinh Thánh luôn đề cập niềm hy vọng ở nhiều dạng và nhiều tình huống. Ông Ê-li-phát, người Tê-man, nói lời động viên ông Gióp: “Người cứu kẻ yếu hèn khỏi lưỡi gươm, khỏi tay người quyền thế. Bấy giờ kẻ nghèo khó lại bừng lên niềm hy vọng, và phường tội lỗi chẳng còn dám hé môi” (G 5:15-16). Vâng, Thiên Chúa luôn tín thành và giàu lòng thương xót, nhất là đối với những người bé mọn: “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Người đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người” (Mt 12:20-21).

Thánh Phaolô động viên: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện” (Rm 12:12). Niềm hy vọng kéo theo nhiều hệ lụy. Và Thánh Phaolô cầu chúc: “Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vuibình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng” (Rm 15:13). Ước gì mỗi chúng ta luôn sống được như vậy!

Liên quan niềm hy vọng, Thánh Phaolô “chuyển hệ” một chút: “Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6:34-35). Loại hy vọng này khó lắm, khó vô cùng. Nhưng ai có niềm hy vọng này mới thực sự là thánh nhân!

Cuộc sống luôn có rất nhiều thứ khiến chúng ta nản chí, chùn bước. Tuy nhiên, dù thất vọng thì cũng đừng bao giờ tuyệt vọng (x. 2 Cr 4:8). Hy vọng, thất vọng, tuyệt vọng (vô vọng). Ba mức độ này chênh lệch nhau không nhiều. Có câu chuyện về bốn ngọn nến như thế này…

Trong một căn phòng, không gian tĩnh lặng tới mức người ta có thể nghe thấy tiếng thì thầm của những ngọn nến. Cây nến thứ nhất than vãn: “Tôi là biểu tượng của Thái Bình và Hoà Thuận. Thế nhưng thời nay, những cái đó thật chênh vênh, chông chênh. Thế giới hiếm khi không có gươm đao, súng đạn, tranh chấp, cãi cọ,… giữa người với người – thậm chí vợ chồng, anh em trong một nhà”. Thế rồi ngọn nến leo lét, ngọn lửa mờ dần, mờ dần,… cho tới khi ánh sáng lụi tắt hoàn toàn.

Ngọn nến thứ hai vừa lắc đầu vừa kể lể: “Tôi là Niềm Tin. Thế nhưng trong thế giới này hình như tôi trở nên thừa thãi, như một thứ xa xỉ. Biết bao kẻ sống theo thời không cần tới niềm tin”. Nói rồi ngọn nến từ từ tắt, tỏa ra một làn khói trắng luyến tiếc.

Ngọn nến thứ ba than phiền: “Ta là Tình Yêu, nhưng ta không còn đủ sức để tỏa sáng nữa. Người ta gạt tôi ra một bên và không thèm hiểu giá trị của tôi. Cứ nhìn thế giới mà xem, không thiếu những kẻ quên luôn cả tình yêu đối với chính những người ruột thịt của mình”. Dứt lời, ngọn nến vụt tắt.

Căn phòng trở nên tối tăm. Chỉ còn một ngọn nến nằm ở góc xa vẫn tiếp tục phát ra ánh sáng, như ngôi sao đơn độc giữa đêm tối âm u. Bất chợt, một cô bé bước vào phòng. Thấy ba ngọn nến đã tắt, cô bé thốt lên: “Tại sao các bạn không cháy nữa? Cuộc sống này luôn cần các bạn. Hòa Bình, Niềm Tin, Tình Yêu phải luôn tỏa sáng chứ?”.

Cây nến thứ tư nãy giờ vẫn lặng lẽ cháy trong góc phòng khe khẽ đáp lời cô gái: “Đừng lo! Tôi là Hy Vọng. Nếu tôi còn cháy, mặc dù ngọn lửa rất mong manh, chúng ta vẫn có thể thắp sáng lại Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu”. Mắt cô bé sáng lên. Cô bé dùng cây nến Hy Vọng để thắp sáng lại các cây nến khác.

Niềm Hy Vọng rất quan trọng. Nếu trái tim luôn cháy lên “ngọn lửa hy vọng”, dù chỉ leo lét và âm ỉ, chúng ta sẽ tìm lại được những điều tốt đẹp khác cho cuộc sống: Tình yêu, niềm tin và bình an. Thánh Don Bosco chia sẻ kinh nghiệm: “Càng khốn khó thì càng phải tin cậy vào Thiên Chúa”.

Hy vọng là Đức Cậy. Đức Cậy liên quan Đức Tin, vì có tin tưởng thì mới trông cậy. Chúa Giêsu dạy chúng ta tin tưởng nơi Ngài: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài!”. Sau khi nhận hỉ tín làm Mẹ Thiên Chúa và đi thăm người Chị cũng vừa được hỉ tín làm mẹ của Gioan Tẩy Giả, Đức Maria đã xưng tụng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:50).

Tháng Mười Hai. Cuối năm. Nhưng là đầu năm Phụng vụ, Giáo hội cho chúng ta sống trong một khoảng thời gian Mùa Vọng để chuẩn bị đón mừng Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, nhắc nhở chúng ta hướng vọng về Nước Trời, nơi không còn Đức Tin và Đức Cậy, chỉ còn Đức Mến và sự Bình An vĩnh viễn. Thánh Tiến sĩ Augustinô xác định: “Hồn con còn xao xuyến mãi cho tới khi nào được an nghỉ trong Thiên Chúa”.

Mùa Vọng là Mùa Hy Vọng – trông đợi và mong ước điều tốt lành nhất: Chúa Giêsu giáng sinh làm người. Đó là khởi đầu của sự bình an và niềm hy vọng: Ơn Cứu Độ.

Lạy Thiên Chúa, xin vì sự giáng sinh của Đấng Cứu Thế đem lại ƠN BÌNH AN và NIỀM HY VỌNG cho mọi người thành tâm thiện chí. Xin giúp chúng con biết kiến tạo hòa bình, bảo vệ công lý, và khơi nguồn hy vọng cho tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …