Trong mắt người Do Thái, cả chính quyền và những nhà lãnh đạo tôn giáo, Chúa Giêsu là “cái gai” cần phải nhổ càng sớm càng tốt. Họ ghét Ngài vì Ngài nói những điều “khó nghe” lắm, đến cả các môn đệ cũng thấy “không lọt lỗ tai” kia mà. Nhưng điều gì Chúa Giêsu nói cũng là thật, chỉ vì phàm nhân không thể hiểu mà thôi.
Qua trình thuật Ga 6:41-52, Chúa Giêsu nói rõ về loại “bánh đặc biệt” mà Ngài gọi là Bánh Trường Sinh, Bánh Hằng Sống. Và chính Ngài là Bánh đó. Sau khi nghe Chúa Giêsu nói nói vậy, người Do Thái liền xầm xì phản đối, họ “chói tai” vì Ngài xác nhận: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Chắc chắn rằng, từ cổ chí kim, cả hiện tại và tương lai hoặc bất cứ dân tộc nào, không ai dám nói như vậy – và cũng chẳng ai dám tự xưng là Thiên Chúa. Rất “khó nghe” vì phàm nhân không thể hiểu nổi những gì cao hơn vầng trán bé nhỏ của mình. Và người Do Thái bàn tán: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”
Là tín nhân, ngày nay không ai tranh luận về “sự lạ” Thánh Thể vì chúng ta thừa kế di sản đức tin tông truyền, nếu chúng ta sống thời đó và lần đầu nghe Chúa Giêsu nói vậy, chắc chắn chúng ta nổi gai óc và nổi nóng không khác người Do Thái xưa. Tuy nhiên, dù đã hơn hai ngàn năm qua, những người vô thần hoặc theo tôn giáo khác, kể cả một số hệ phái Kitô giáo, người ta vẫn không chấp nhận Bí tích Thánh Thể, cho rằng người Công giáo ảo tưởng. Nhưng sự thật vẫn mãi là sự thật, dù người ta không tin thì sự thật vẫn bất biến.
Biết người Do Thái đang “ù tai” nên Ngài nói: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.” Hết cú sốc này tới cú sốc khác, họ muốn phát điên. Nhưng Chúa Giêsu không thể chuyển đề tài, và Ngài dẫn chứng: “Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.” Họ càng điên tiết hơn!
Không thể che giấu sự thật. Chúa Giêsu nói thẳng: “Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6:51) Người Do Thái tranh luận sôi nổi với nhau. Họ tức giận lắm, nhất là mấy “ông lớn,” nhưng họ vẫn không thể làm gì được Ngài. Rất có thể hôm đó có xảy ra ẩu đả nhau vì ai cũng muốn bảo vệ lý luận của mình, có một số người đã theo Ngài mà nay rút lui.
Con người yếu đuối và muốn thỏa mãn ý mình, những người theo Chúa cũng không ngoài ý đó, thậm chí còn muốn được chức trọng quyền cao khi đi theo Ngài – như Giacôbê và Gioan vậy. (Mt 20:20-23 ≈ Mc 10:35-40) Phàm nhân thật là phức tạp. Thánh Vịnh gia cầu nguyện: “Thân phận bồ câu, xin đừng trao cho thú dữ, đừng mãi mãi quên đi mạng sống dân nghèo khổ của Ngài.” (Tv 74:19) Người nghèo bao giờ cũng khổ. Khổ trăm bề, đủ thứ, đủ kiểu, đủ mức, cả thể lý và tinh thần.
Đói thể lý có thể dẫn tới đói tinh thần. Người Việt Nam thực tế: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no.” Ẩm thực Việt Nam luôn đậm đà hương vị, mang tính cộng đồng như chấm chung một chén nước mắm, dùng đôi đũa chứ không “riêng tư” như kiểu dùng muỗng và nĩa. Đến bữa, cả nhà cùng quây quần chứ không mạnh ai nấy ăn. Cả nhà không chỉ cùng chia sẻ lương thực vật chất mà còn chia sẻ lương thực tinh thần, thể hiện tình yêu thương: “Trời đánh tránh bữa ăn.” Đó là một dạng Tân Phúc Âm hóa. Gia đình là nền tảng rất quan trọng.
Trình thuật 1 V 19:4-8 cho biết: Một mình ông Êlia đi một ngày đường trong sa mạc, rồi ông đến ngồi dưới gốc một cây kim tước. Cây Kim Tước thuộc họ đậu, hoa màu vàng ươm, nở vào mùa Xuân, còn gọi là “hoa chuỗi vàng” (Golden Chain Flowers). Tất cả các bộ phận của cây kim tước đều độc, có thể gây tử vong. Tuy nhiên, cây cũng được dùng để làm giảm nhịp tim và kích thích lợi tiểu.
Ông Êlia mệt mỏi vì đường xa, lại đói khát, có lẽ nản lòng nên ông cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con.” Nói rồi ông nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi. Nhưng một thiên sứ đến đánh thức ông và bảo ông dậy mà ăn. Ở phía đầu ông có một chiếc bánh nướng và một hũ nước. Ông ăn bánh, uống nước, rồi lại nằm xuống chờ… chết! Thiên sứ trở lại, đụng vào người ông và nói: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa.” Ông lại dậy, ăn bánh và uống nước. Nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ông đi suốt bốn mươi ngày đêm tới Khôrếp – tức là núi Sinai của Thiên Chúa.
Ông Êlia ăn có một bữa với món bánh đó mà cầm cự được 40 đêm ngày. Đúng là Thần Lương! Con số 40 là con số quen thuộc nhưng khá đặc biệt, được đề cập nhiều lần trong Kinh Thánh. [*] Số 40 cũng là khoảng thời gian kỳ lạ – dù là ngày, tháng, hoặc năm. Với con người, 40 năm là độ tuổi trung niên, coi như đã trưởng thành toàn diện tâm sinh lý.
Thần Lương chỉ có thể là bánh do Thiên Chúa ban tặng. Bánh thường hóa Thần Lương. Thần Lương nhắc nhớ tới Bánh Thiêng là Thánh Thể Đức Giêsu Kitô. Có Thần Lương nuôi dưỡng phần xác thì cũng có Thần Lương nuôi dưỡng phần hồn. Thánh Vịnh gia được nuôi dưỡng cả xác hồn nên tâm nguyện: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.” (Tv 34:2) Không chỉ vậy, Thánh Vịnh gia còn xác nhận và chia sẻ: “Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người.” (Tv 34:3-4) Chứng cớ được viện dẫn và lý giải rạch ròi: “Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh để giải thoát những ai kính sợ Người.” (Tv 34:5-8)
Thánh Vịnh 34 [33] là một Thánh Vịnh “đẹp” – đẹp cả ngôn từ và ý nghĩa. Đọc Thánh Vịnh này khiến người ta cảm thấy ấm lòng. Ước gì mỗi chúng ta cũng khả dĩ cảm nghiệm ân tình của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, và luôn biết nhắn nhủ lẫn nhau: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34:9) Cảm nhận điều tốt lành thì phải thực hành điều tốt lành, không thể hành động cách khác.
Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác.” (Ep 4:30-31) Cái “tôi” là cái tồi tệ, nó luôn muốn vùng lên bất cứ lúc nào, vì ai cũng cho mình là “số dzách” – số một, đệ nhất, number one. Có biết yêu mình thì mới biết yêu người khác, đúng vậy, nhưng yêu mình thái quá hóa tự ái, tự ái dẫn tới ích kỷ và giận dữ, tất nhiên sẽ kiêu ngạo. Nguy hiểm quá!
Chính Saolô đã hung hăng, hiếu chiến, háo thắng, tự cho mình có quyền lực nên tìm mọi cách chống lại danh Đức Giêsu. Ông đã từng giận dữ mà rảo khắp các hội đường, cưỡng bức người ta phải nói lộng ngôn, sang cả nước ngoài mà bắt bớ những người tin theo Đức Kitô, (x. Cv 26:11) nhưng chính ông đã khốn khổ vì “châu chấu mà muốn đá voi,” thậm chí còn dám “giơ chân đạp vào mũi nhọn.” (Cv 26:14) Tội to lắm, nặng lắm, ông bị “triệt buộc.” Và rồi một Saolô ngang ngược đã biến thành một Phaolô nhiệt thành rao giảng về danh Đức Kitô. Với kinh nghiệm “xương máu,” ông khuyên: “Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn.” (Ep 4:26)
Không làm điều xấu vẫn là tiêu cực, cũng chưa xong bổn phận, mà còn phải tích cực làm điều tốt, nghĩa là “phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, NHƯ Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trong Đức Kitô.” (Ep 4:32) Thánh Phaolô kết luận: “Vậy, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt.” (Ep 5:1-2)
Bác ái là đức ái, một trong ba nhân đức đối thần cần thiết cho cả đời này và đời sau. Đó là một loại bánh đặc biệt để nuôi dưỡng tinh thần mà ai cũng cần sử dụng để khả dĩ duy trì sự sống tâm linh. Từ bánh vật chất đời thường, chúng ta đi tới bánh tinh thần cần cho đời sống tâm linh, và còn cần hơn nữa là Bánh Hằng Sống – Bánh Con Người Giêsu Kitô.
Lạy Thiên Chúa, xin giữ gìn chúng con vững bước trên hành trình đức tin, xin soi sáng cho chúng con biết việc phải làm đúng ý Ngài, xin ban cho mọi người được an cư lạc nghiệp, đủ sống và được no thỏa Thánh Thể để đủ sức chiến đấu hằng ngày. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
[*] Một số câu Kinh Thánh đề cập con số bốn mươi: (a) Sau 40 ngày lụt Đại Hồng Thủy, (St 7:17) có nhân loại mới, tượng trưng bằng gia đình ông Nôê. (b) Khi 40 tuổi, ông Môsê đã đến thăm dân đang sống kiếp nô lệ ở Ai Cập; (Cv 7:23) sau 40 năm ở tại Mađian, ông được Thiên Chúa kêu gọi đi giải phóng dân Israel, (Cv 7:30) ông đã hướng đạo dân Israel đi trong sa mạc suốt 40 năm. (c) Sau hai lần ở trên núi Sinai 40 ngày đêm cầu nguyện, (Xh 24:18; Xh 34:28) ông Môsê nhận được Luật Giao Ước để tổ chức đời sống cho Dân Chúa. (d) Sau 40 năm đi trong sa mạc, (Ds 14:22; Đnl 1:3) đoàn dân vào Đất Hứa, thoát kiếp nô lệ, được sống tự do. (e) Sau 40 ngày đêm đi trong sa mạc, (1 V 19:8) ngôn sứ Êlia đến núi Khôrếp (Sinai) để gặp Thiên Chúa và được Người củng cố trong sứ mạng. (f) Sau 40 ngày ăn chay hãm mình đền tội, dân thành Ninivê được Thiên Chúa tha thứ. (Gn 3:10) (g) Sau 40 ngày ăn chay trong sa mạc, (Mt 4:2) Đức Giêsu công khai thi hành sứ vụ. (h) Sau khi sống lại 40 ngày, Đức Giêsu dạy dỗ các tông đồ, chuẩn bị cho các ông đón nhận Chúa Thánh Thần, Hội Thánh được thiết lập, và các ông can đảm ra đi truyền giáo. (Cv 1:3)