Năm nay, đặt tên cho lá thư mục vụ Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh là “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16), Đức cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Tổng Giám mục TGP. Sài Gòn-TP. HCM, xác định rõ một thực trạng thế giới “đang chịu quá nhiều đau khổ vì các hành vi khủng bố…”.[1] Tuy nhiên, với tâm trạng hoàn toàn tin tưởng và phó thác vào “Lòng Nhân Từ Thương Xót” của Thiên Chúa, ngài rất mong muốn chúng ta – “linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và anh chị em giáo dân…”[2] – là những đối tượng cách riêng theo lá thư mục vụ của ngài, hãy nâng cao tâm tình “khao khát đón Chúa, yêu mến Chúa, yêu mến Chúa thật nhiều, yêu mến Chúa mỗi ngày một nhiều hơn…”.[3]
Chính trong tâm tình này, bài thứ hai tìm hiểu về Tông chiếu Dung nhan lòng xót thương xin giới thiệu:
Sáu lần sử dụng từ mercy
- APV 1,1[4]
- Jesus Christ is the face of the Father’s mercy. (APV 1,1)
- Jésus-Christ est le visage de la miséricorde du Père. (APV 1,1)
- Đức Giêsu Kitô là dung nhan lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. (APV 1,1)
- APV 1,3
- Mercy has become living and visible in Jesus of Nazareth, reaching its culmination in him. (APV 1,3)
- Devenue vivante et visible, elle atteint son sommet en Jésus de Nazareth. (APV 1,3)
- Lòng thương xót đã trở nên sống động và hữu hình nơi Đức Giêsu Nagiarét, đạt đến cực điểm nơi Người. (APV 1,3)
- APV 1,4
- The Father, “rich in mercy” (Eph2:4), after having revealed his name to Moses as “a God merciful and gracious, slow to anger, and abounding in steadfast love and faithfulness” (Ex34:6), has never ceased to show, in various ways throughout history, his divine nature. (APV 1,4)
- Le Père, “riche en miséricorde” (Ep 2, 4) après avoir révélé son nom à Moïse comme “Dieu tendre et miséricordieux, lent à la colère, plein d’amour et de vérité” (Ex 34, 6) n’a pas cessé de faire connaître sa nature divine de différentes manières et en de nombreux moments. (APV 1,4)
- Chúa Cha, “giàu lòng thương xót” (Ep 2,4), sau khi đã mặc khải với Môsê danh Ngài là “Thiên Chúa nhân từ và đầy lòng xót thương, chậm bất bình, giàu tình yêu kiên định và lòng thành tín” (Xh 34,6), đã không ngừng thể hiện bản tính Thiên Chúa của Ngài bằng nhiều cách thức khác nhau trong suốt lịch sử. (APV 1,4)
- APV 1,7
- Jesus of Nazareth, by his words, his actions, and his entire person[5] reveals the mercy of God. (APV 1,7)
- A travers sa parole, ses gestes, et toute sa personne,[6] Jésus de Nazareth révèle la miséricorde de Dieu. (APV 1,7)
- Qua lời nói, hành động và toàn bộ con người mình,[7] Đức Giêsu Nagiarét đã mặc khải lòng thương xót của Thiên Chúa. (APV 1,7)
- APV 2,1
- We need constantly to contemplate the mystery of mercy. (APV 2,1)
- Nous avons toujours besoin de contempler le mystère de la miséricorde. (APV 2,1)
- Chúng ta cần liên tục chiêm ngắm mầu nhiệm lòng xót thương. (APV 2,1)
- APV 2,4
- Mercy: the word reveals the very mystery of the Most Holy Trinity. (APV 2,4)
- Miséricorde est le mot qui révèle le mystère de la Sainte Trinité. (APV 2,4)
- Lòng thương xót: từ ngữ mặc khải chính mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. (APV 2,4)
Tóm lại
Chúng ta cần tích cực lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong sự tín thác hoàn toàn vào Chúa vì: (1) “Đức Giêsu Kitô là dung nhan lòng thương xót của Thiên Chúa Cha” (APV 1,1). Thật vậy, chúng ta có bổn phận phải phổ biến tình yêu xót thương cho mọi người như Đức Giêsu Kitô đã thực hiện: giúp đỡ cơm ăn áo mặc cho người nghèo, nâng đỡ tinh thần cho những người cô thân cô thế… làm thế nào để “mọi người được hưởng nhờ Lòng Chúa Thương Xót”.[8] Phải, nếu như: (2) “Lòng thương xót đã trở nên sống động và hữu hình nơi Đức Giêsu Nagiarét, đạt đến cực điểm nơi Người” (APV 1,3), thì phải chăng ước vọng canh tân đời sống đạo của mỗi người chúng ta chính là tinh thần hăng say loan báo Tin mừng, giới thiệu Đức Giêsu Nagiarét cho người khác?
Khi ý thức: (3) “Chúa Cha, ‘giàu lòng thương xót’ (Ep 2,4), sau khi đã mặc khải với Môsê danh Ngài là ‘Thiên Chúa nhân từ và đầy lòng xót thương, chậm bất bình, giàu tình yêu kiên định và lòng thành tín’ (Xh 34,6), đã không ngừng thể hiện bản tính Thiên Chúa của Ngài bằng nhiều cách thức khác nhau trong suốt lịch sử” (APV 1,4), thì làm gì bất cứ: dù là mục vụ gia đình, hay mục vụ môi trường…, tất cả đều phải làm nổi bật sự thật về một Thiên Chúa nhân từ và đầy lòng xót thương. Quả thế, (4) “Qua lời nói, hành động và toàn bộ con người mình,[9] Đức Giêsu Nagiarét đã mặc khải lòng thương xót của Thiên Chúa” (APV 1,7).
Nghĩa là, chúng ta cần (5) “… liên tục chiêm ngắm mầu nhiệm lòng xót thương” (APV 2,1), bởi chính Đức Giêsu Kitô là “sức mạnh của những người yếu đuối, của những nghèo khổ; sức mạnh giúp họ đi trên đường đời còn nhiều bất công, áp bức, khổ đau”.[10] Xa hơn, khi chiêm ngắm mầu nhiệm lòng xót thương, chúng ta thậm chí còn có thể khẳng định: (6) “Lòng thương xót: từ ngữ mặc khải chính mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi Chí Thánh” (APV 2,4).
Để kết
Mỗi khi đến Mùa Giáng Sinh, chúng ta thường chúc nhau được tràn đầy niềm vui và ơn bình an của Con Thiên Chúa làm người. Niềm vui và bình an như thế không thể có nếu không có Đức Giêsu Kitô, dung nhan tuyệt hảo về lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Đó là hồng ân của thời cứu độ, trong đó Thiên Chúa…
… “nhân từ và giàu lòng thương xót” đã sai Con Một của Ngài mang tình thương cứu độ đến cho nhân loại, đặc biệt cho những người nghèo khổ.[11]
Những dẫn chứng trong bài này từ Tông chiếu Dung nhan lòng xót thương cũng nhắc chúng ta về một hiện thực của niềm vui và bình an: Con Thiên Chúa đã làm người: Người là Đấng Emmanuen¸ dung nhan tuyệt hảo về lòng thương xót của Thiên Chúa Cha.
Lm. G. Tạ Huy Hoàng
12-12-2015
GTHH
————————————–
[1] X. Bùi Văn Đọc, Thư mục vụ Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh 2015, số 1.
[2] Ibid.
[3] Ibid.
[4] Để tiện việc tra cứu, các chữ và các số được sử dụng làm ký hiệu: (1) APV là các chữ viết tắt của các từ: Anh, Pháp, Việt; (2) các số 1, 2, 3… chỉ các số, các câu trong tông chiếu. Thí dụ: (APV 1,1): Bản văn Anh, Pháp, Việt: số một, câu một; (APV 1,2): Bản văn Anh, Pháp, Việt: số một, câu hai; (3) ….
[5] Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitu-tion on Divine Revelation Dei Verbum, 4.
[6] Cf. Conc. œcum. Vat. II, Const. dogm. Dei Verbum, n. 4.
[7] X. DV, số 4.
[8] X. Bùi, Thư mục vụ… 2015, số 2.
[9] X. DV, số 4.
[10] X. Bùi, Thư mục vụ… 2015, số 5.
[11] Ibid., số 5.