Veritas Liberabit Vos – Sự thật sẽ giải thoát bạn. (Ga 8:38)
Ngay từ thời kỳ sơ khai của Giáo Hội, các vị tử đạo Macabê đã được công nhận là mẫu mực và điềm báo về các vị tử đạo Kitô giáo. Hơn ngàn năm sau, họ đã truyền cảm hứng cho quân Thập Tự Quân trong cuộc đấu tranh chiếm lại Thánh Địa.
Khái niệm của tôi về Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái của Kitô giáo có thể bị ràng buộc một cách mù mờ với thói quen của tôi là đọc sách Macabê, quyển I, mỗi năm khi lịch Do Thái yêu cầu điều đó: cụ thể là việc tưởng nhớ việc giải phóng Giêrusalem khỏi sự thống trị của Seleucid, và việc tái dâng hiến ngôi đền thứ hai của Hêrôđê.
Nó ẩn chứa trong lễ kỷ niệm Chanukah, tám ngày kết thúc vào lúc màn đêm buông xuống. Người Do Thái chúng tôi (vì Công giáo, do một người Do Thái thành lập, có nguồn gốc từ Do Thái giáo) tưởng nhớ những chiến binh và các vị thánh chính nghĩa, cũng như tất cả các phép lạ cho sự sống còn của chúng tôi – chúng tôi tin rằng điều này sẽ tiếp tục cho đến ngày nay.
Theo nghĩa này, đức tin của chúng ta là đức tin chiến binh: chúng ta có thể “phục tùng” cái chết, nơi mà cái chết là điều không thể tránh khỏi, nhưng người sống và kẻ chết đều cùng nhau phục vụ Thiên Chúa – Chúa Cha.
Đó là loại “lý thuyết dây” tâm linh mà tôi đang đề cập ở đây, theo quan niệm của tôi về Giáo Hội. Phụng Vụ hy tế trong Thánh Lễ bắt nguồn từ việc thờ phượng tại Đền Thờ ở Giêrusalem (trái ngược với Do Thái giáo của các giáo sĩ Do Thái sau này), Kitô giáo “chính thống” tiếp nối Do Thái giáo “chính thống,” và khi giành được tự do, người Do Thái cũng đã giành được tự do cho chúng ta.
Các sự kiện ở Trung Đông đã đánh thức người Do Thái trước mối nguy hiểm và số phận của họ, điều tương tự cũng ảnh hưởng các Kitô hữu.
Trong sự kiện ngày 7-10-2023, chúng ta có một lời nhắc nhở không chỉ về tình hình quân sự (sách Macabê rất hay mô tả những điều này), mà còn về các thực tại luân lý. Những kẻ khủng bố Hamas đã hãm hiếp, tra tấn và sát hại những người Do Thái vô tội ở mọi lứa tuổi và khách của họ, đang thể hiện điều ngược lại với hành vi “Kitô giáo – Do Thái giáo” đã quy định.
Họ thuộc về một tôn giáo được thành lập dựa trên sự quy phục. Đức Kitô dạy rằng chúng ta NÊN BIẾT sự thật hơn, vì sự thật sẽ giải phóng chúng ta. Ngài đã tuyên bố điều này “với những người Do Thái đã tin Ngài” và khiến họ trở thành môn đệ, như chúng ta đọc trong Kinh Thánh. Đặc biệt hãy lưu ý: các môn đệ chứ không phải là nô lệ. Nhưng ngày nay, điều này tiếp tục là sự khác biệt quan trọng khi cư dân hậu Kitô giáo ở Tây phương tỏ ra ưa thích chế độ nô lệ.
Theo suy nghĩ của tôi, việc mất đi niềm tin tôn giáo là nguyên nhân chính của việc này. Ý tưởng cho rằng cuộc sống con người có thể đưa ra bất cứ điều gì ngoài sự lựa chọn phục tùng (đối với Hồi giáo, chủ nghĩa cộng sản, thương mại, sự đồi trụy) đang rơi vào tình trạng thiếu suy nghĩ, và không có gì ngạc nhiên khi chúng ta chấp nhận các chỉ dẫn từ những người thầy mới.
Họ có thể không phải là thầy của con người. Chỉ có sự vâng lời của chúng ta là con người. Các bộ máy quan liêu mới của chế độ Batflu, hay chế độ khí hậu hoặc “chuyển giới,” được hướng dẫn một cách vô nhân đạo hoặc “chuyển đổi nhân loại.” Đó là những dấu hiệu của thời đại.
“Dân chủ” đã bị đảo ngược trong đời sống chính trị của chúng ta. Ít nhất về mặt lý thuyết, điều đó có nghĩa là đàn ông sẽ chọn các thành viên trong chính phủ của họ, giờ đây điều đó có nghĩa là chính phủ bị áp đặt – vì “người dân” đã lên tiếng, và lương tâm của chúng ta đã bị xóa bỏ. Việc bỏ phiếu quyết định tất cả.
Cá nhân công dân Kitô giáo được luật lệ gần đây ra lệnh không phải tuân theo Đức Kitô, mà là Satan. Ví dụ, ở Canada, họ phải sẵn sàng giết trẻ sơ sinh, người già và người bệnh, nếu họ là chuyên gia y tế. Lương tâm của họ không có sự bảo vệ hợp pháp trước những yêu cầu của ma quỷ trong xác thịt con người.
Do đó, nguyên tắc máy móc của bộ máy quan liêu có thể được áp dụng trong các vấn đề sinh tử, giống như Đức Quốc Xã, và đã bị nhiều chính phủ tâm thần khác gây ra trong quá trình lịch sử được ghi lại. Người dân Đức, giống như người Bắc Mỹ ngày nay, chỉ đơn giản là cho phép điều đó vì sợ hãi. Những người tự do không cho phép bạo chúa. Điều này không liên quan gì đến luật pháp.
Họ sử dụng mọi biện pháp cần thiết để lấy lại tự do. Đó là nguyên tắc đằng sau quyền mang vũ khí, vốn không được phát minh ở Mỹ mà có từ truyền thống Anh và thời Trung Cổ. Đó là điều mà hầu hết các nạn nhân của Hamas đều thiếu trong ngày 7-10-2023: họ không được trang bị vũ khí. Một trong những lợi ích nghịch lý của thời đại là người Israel và người Do Thái ở Mỹ giờ đây dường như đang tự trang bị vũ khí cho mình với số lượng vô tiền khoáng hậu.
Thật vô nghĩa khi càu nhàu, như những người cộng hòa vô vị thường làm, rằng Harvard và các trường đại học Woke khác nhau đã không chống nổi chủ nghĩa bài Do Thái, hoặc các trường công đang tẩy não con cái họ, hoặc nói chung là xã hội lịch sự đó không còn tồn tại nữa.
Các cuộc thăm dò dư luận về quan điểm của giới trẻ Mỹ khá kinh khủng. Những con số kỷ lục không tin rằng Holocaust (hủy diệt hàng loạt) đã thực sự xảy ra, nhiều người không nghĩ Israel có quyền tồn tại, và họ không nghĩ giết người và diệt chủng là sai, trong tất cả mọi trường hợp. Họ chưa chiếm đa số, nhưng họ đã có thể xoay chuyển các cuộc bầu cử.
Người ta không cần phải là thành viên của Hiệp hội Súng trường Quốc gia mới nhận ra rằng người Do Thái và Kitô giáo cần được trang bị vũ khí, trong một thế giới mà “tiến bộ” đang hướng tới. Hơn nữa, họ cần thể hiện lòng dũng cảm khi tính mạng bị đe dọa.
Quyền tự do ngôn luận được công nhận trong Hiến pháp Hoa Kỳ và ở hầu hết các quốc gia từng theo Kitô giáo khác. Điều này thật tốt, và thật tốt khi có luật để viện dẫn khi có ai đó bắt bạn phải im lặng.
Tự do ngôn luận còn đòi hỏi chúng ta nói năng tự do. Điều đó yêu cầu chúng ta “không được im lặng” khi người ta yêu cầu làm vậy một cách bất hợp pháp. Chúng ta không thể bị buộc phải nói dối hoặc che giấu sự thật.
Mặt trái của bản chất thực sự nhu mì nhất thiết phải là bản chất can đảm. Hai phẩm chất này đi đôi với nhau trong tâm trí triết học lành mạnh. Vì “hiền lành” không có nghĩa là sợ hãi. Chúa Kitô nói: “Đừng sợ!” Như Theodore Roosevelt (tổng thống thứ 26 của Hoa Kỳ, 1901-1909) đã nói: “Người ta nên nói nhỏ nhẹ và mang theo một cây gậy lớn.” Hoặc như T. S. Eliot đã viết: “Cái bay trong tay và khẩu súng hơi lỏng lẻo trong bao.” Ông ám chỉ tiên tri Nơkhemia.
DAVID WARREN
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ TheCatholicThing.org)