Home / Chia Sẻ / NỖI KHỔ CỦA CHIÊN

NỖI KHỔ CỦA CHIÊN

NoikhocuaChien1Mục Tử Thật Hy Sinh Mạng Sống

Người Làm Thuê Bỏ Mặc Đàn Chiên

Ngày xưa, Thiên Chúa nguyền rủa: “Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, chúng tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm.” (Ed 34:2-6)

Ngày nay, ĐHY Robert Sarah (bộ trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích từ 23-11-2014 đến 20-2-2021) nhận định: “Các giám mục làm phân tán đàn chiên mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho họ sẽ bị Thiên Chúa phán xét một cách không thương xót và nghiêm khắc.” Chính Chúa Giêsu xác định: “Tôi đến để cho chiên được SỐNG và SỐNG DỒI DÀO,” (Ga 10:10) và Ngài hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20) Còn Thánh Phaolô cảnh báo: “Một số cành cây ô-liu đã bị chặt đi, còn bạn là ô-liu dại đã được tháp vào đó, và cùng được hưởng sự sống dồi dào từ rễ cây ô-liu chính. Vì thế, bạn đừng có lên mặt khinh dể các cành khác.” (Rm 11:17-18)

Xưa nay người ta thường đề cập nỗi khổ của mục tử nhưng ít (hoặc không) chú ý tới nỗi khổ của chiên, nhất là những đàn chiên vất vưởng, những con chiên đau khổ vì bị bỏ rơi, bị hành hạ, bị áp bức,… phải chịu đựng vì thấp cổ bé miệng, kêu không thấu, mà có kêu cũng chẳng ai thèm nghe. Thảo nào người ta nói: “Buôn có bạn, bán có phường.” Sự thật nào cũng phũ phàng lắm!

Ngày xưa, khi thấy đám đông lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương họ. Ngài nói với các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt 9:37-38) Vì thương xót, Ngài không muốn ai phải sống èo uột, mà chỉ muốn mọi người được sống dồi dào, sống viên mãn, sống đúng nhân vị và nhân phẩm của con người, đồng thời cũng được hưởng nhân quyền và sự tự do đích thực. Chắc chắn phải “đi qua” Chúa Giêsu Kitô mới có thể được như vậy, vì Ngài là Con Đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha (Ga 14:6) và là Nguồn Sống Viên Mãn (Ga 10:10) cho mọi người.

Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô không chỉ nuôi sống chúng ta bằng ân sủng mà đặc biệt là chính Mình Máu Ngài để chúng ta được sống dồi dào, vì Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không là Thiên Chúa của người chết. (Mt 22:32; Mc 12:27; Lc 20:38) Nếu muốn sống viên mãn thì mỗi cành nho phải nối kết với Cây Nho Thật để được truyền “nhựa yêu thương.” (Ga 15:1-17) Cành cây nào có nhiều nhựa thì có nhiều sức sống, con người cũng vậy, đặc biệt là sự sống tâm linh – sự sống viên mãn từ Thiên Chúa.

Người ta sẽ biến đổi thành con người mới hoàn toàn nếu được tái sinh bởi Chúa Giêsu Kitô. Cụ thể là Phêrô. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với tất cả những người đang cư ngụ tại Giêrusalem: “Toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Chúa Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.” (Cv 2:36) Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phêrô cùng các tông đồ khác: “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?” (Cv 2:37)

Hỏi như vậy là dấu hiệu tốt lành, chứng tỏ tâm hồn đã thực sự sám hối, ước muốn hướng thiện, khao khát điều tốt. Nghe họ hỏi, ông Phêrô nói: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.” (Cv 2:38-39)

Ngoài ra, ông Phêrô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Rồi ông nói: “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ.” (Cv 2:40) Những ai đã đón nhận lời ông thì đều xin được lãnh nhận phép rửa, muốn được tái sinh để hy vọng được vào Nước Trời. (Ga 3:5) Ngay hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo. Chúa Thánh Thần tác động rõ ràng. Ngày nay người ta có phương tiện định vị toàn cầu giúp không lạc lối, nhưng chỉ có Chúa Giêsu mới chính là “định vị kế” chuẩn mực nhất. Nhận biết được vậy thì người ta sẽ an vui tín thác vào sự quan phòng và tiền định của Ngài, vì họ xác định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3)

Họ luôn an tâm và hạnh phúc thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:4-6) Thật vậy, ai tuân giữ lời dạy của Đức Kitô thì không bao giờ phải chết. (Ga 8:51) “Lòng nhân hậu và tình thương” đó không hề xa lạ, vì đó chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mà ngày nay đang rất phổ biến khắp nơi trên thế giới, từ thành thị tới thôn quê, từ người già tới người trẻ, vì không ai không là tội nhân, và vì thế mà không ai lại không cần đến Lòng Chúa Thương Xót.

NoikhocuaChien2Hằng ngày, khi đọc Kinh Mân Côi, chúng ta nhiều lần kêu cầu: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn.” Nhưng cũng rất có thể vì quen quá hóa nhàm nên chúng ta không thực sự chú ý hoặc không cảm nhận lời cầu tha thiết như vậy. Đời sống tâm linh được lồng trong đời thường, vẫn có đủ thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố,dục) theo bản tính phàm nhân. Do đó mà chúng ta luôn phải cố gắng không ngừng, sơ sảy một chút là té nhào ngay. Chúng ta luôn phải “vượt qua chính mình” vì có những điều không vừa ý mình. Tội trong tư tưởng đáng sợ lắm!

Thánh Phêrô đạt vấn đề: “Nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, đó là ơn Thiên Chúa ban.” (1 Pr 2:20) Và ông giải thích: “Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình.” (1 Pr 2:21-23) Cái khó là “im lặng” và “phó thác” cho Chúa.

Chúa Giêsu là Nguồn Sống nhưng đã chịu chết để chúng ta có cơ hội sửa sai và có thể phục sinh vinh quang như Ngài: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.” (1 Pr 2:24-25) Chúa Giêsu chết vì tội lỗi của chúng ta, nghĩa là chúng ta cũng phải dám chết cho tội lỗi của chính mình – và tội lỗi của người khác, nhờ đó mà được sống lại và được sống viên mãn trong Đấng Phục Sinh.

Chúa Giêsu là Con Đường, là Sự Thật, là Sự Sống, (Ga 14:6) và là Cửa (Ga 10:9) dẫn vào Nguồn Sống Viên Mãn của Thiên Chúa: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.” (Ga 10:1-5) Người ta không hiểu khi nghe Ngài nói vậy. Tất nhiên không chỉ khó hiểu đối với những người thuộc nhóm Pharisêu hồi đó, mà còn khó hiểu đối với cả chúng ta ngày nay.

Thật vậy, những lời Chúa Giêsu nói nghe không thấy có gì “gay gắt,” nhưng thực ra hiểu rồi thì cảm thấy “đụng chạm” và “nhức óc” lắm, vì Ngài muốn nhấn mạnh đến tính chất cần thiết của Mục Tử Nhân Lành. Mục tử đó phải thể hiện lòng thương xót và dám liều mạng vì đoàn chiên. Nói đến lòng trắc ẩn, và đặc biệt trong Tháng Hoa, chắc hẳn nhiều người còn nhớ gương yêu thương sáng chói của Thánh tử đạo Lm Maximilian Maria Kolbe. [*] Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành đích thực, yêu thương mọi người, và chỉ muốn mọi người “đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm,” (1 Ga 3:18) phải phục vụ chứ không được hưởng thụ, (Mt 20:28) thế nhưng vẫn thấy có những người thích dùng quyền và ra lệnh hơn là khiêm nhường phục vụ vì yêu thương.

Có lần ĐGH Phanxicô đã cảnh báo các giám mục: “Mục tử có nguy cơ bị mê hoặc bởi viễn tưởng nghề nghiệp, bởi cám dỗ về tiền bạc, và những thỏa hiệp theo tinh thần thế gian.” Có lần ngài nhấn mạnh rằng giám mục là người được chọn để phục vụ một Giáo Hội duy nhất, vì thế không được tìm kiếm một việc gì khác ngoài việc phục vụ Giáo Hội, và ngài đã nói thẳng: “Nếu tìm kiếm một việc gì khác thì chính giám mục đó đang ngoại tình.” Gương “giám mục xa hoa” Franz Peter Tebartz van Elst (người Đức) còn đó, và rồi ông đã bị đình chỉ nhiệm vụ hồi tháng 10-2013, sự cố 10 năm rồi nhưng không bao giờ cũ.

Thời gian gần đây có nhiều chuyện rắc rối liên quan mục tử trong Giáo Hội tại Việt Nam. Chắc chắn Mục Tử Giêsu đau khổ lắm! Nhắc tới những điều “nhạy cảm” như vậy, có những người “nhột” (chính họ nhột hoặc nhột dùm), nhưng phải nhột như vậy mới có thể “thức giấc.” Chúng ta chỉ tâng bốc nhau bằng những lời khen sáo rỗng để lấy lòng nhau thì có ai lợi gì không, hay lại chỉ dìu nhau vào con đường mê lầm? Dám nhìn thẳng vào sự thật mới là người yêu sự thật, và nhờ đó mới có thể thành nhân. Sợ sự thật hoặc tránh sự thật là đồng lõa với sự giả dối.

Khi đọc Lời Chúa, người ta chỉ thích những câu “vừa ý mình,” tránh những câu “chói tai” càng nhiều càng tốt. Người ta nói rất mạnh khi gặp đoạn Kinh Thánh không “chạm” tới mình, nhưng lại “bẻ lái” khi gặp đoạn Kinh Thánh “hóc búa,” vì có những câu “chạm” mạnh quá, nên cảm thấy… “nhột” và tránh né. Lời Chúa là thế, có lúc khiến chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng có lúc làm chúng ta đau điếng. Có dám chịu “nỗi đau” đó thì mới khả dĩ “bừng tỉnh cơn mê” mà sớm thành nhân. Chỉ có thuốc đắng mới “đã” tật mà thôi!

Mục Tử Giêsu xác định: “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10:7-10) Mục Tử Nhân Lành là vậy, luôn sống và hành động vì người khác, vì đoàn chiên, vì sự thật. Ai không là chủ chiên nhân hậu như Ngài thì chỉ là “thợ chiên” (chăn thuê) mà thôi, qua loại “cửa” này thì chết chắc!

Liên quan sự viên mãn, Thánh Phaolô kêu gọi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.” (Ep 3:17-19) Trong lời kinh hòa bình, Thánh Phanxicô Assisi có nguyện ước thực tế và sâu sắc: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.”

Và ngài tin chắc: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” Đó chính là sự sống dồi dào và viên mãn của những người tin Chúa Giêsu Kitô là Thánh Tử hóa thành nhục thể, chịu chết và phục sinh. Chúa Giêsu đã cứu độ chúng ta bằng Bửu Huyết vô giá, nhờ đó mà chúng ta được phục hồi cương vị làm con và được sống viên mãn.

Lạy Thiên Chúa hằng hữu và nhân lành, xin cho mọi người biết sống vì Ngài trong mọi hoàn cảnh. Xin cho các giáo sĩ sống theo chuẩn mực của Mục Tử Giêsu đặt ra, để đoàn chiên không phải chịu khổ, nhưng được sống dồi dào và phát triển đúng ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

[*] Lm Kolbe là tu sĩ Dòng Phanxicô, sinh ngày 8-1-1894, tử đạo ngày 14-8-1941 tại trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã, thế chiến II. Ngài được tuyên xưng là vị tử đạo bác ái vì đã động lòng trắc ẩn mà chịu chết thay cho một tử tù có vợ con. Ngài được tuyên thánh ngày 10-10-1982, được tôn làm thánh bổn mạng của người nghiện ma túy, tù nhân chính trị, gia đình, ký giả, phong trào bảo vệ sự sống, và là “Thánh Bổn Mạng của Thế Kỷ Khó Khăn” này. Ngài được mệnh danh là Tông Đồ Tận Hiến cho Đức Mẹ vì đã nỗ lực thúc đẩy phong trào tận hiến và phó thác cho Đức Mẹ, và được gọi là “Gã Khờ của Đức Mẹ” vì đã làm mọi thứ cho Đức Mẹ. Chính cái chết của ngài là đỉnh điểm của “sự sống hoàn toàn tận hiến cho Đức Mẹ.”

 

Xem thêm

Lc 2, 1-14

SUY NIỆM TIN MỪNG LỄ ĐÊM GIÁNG SINH, CỦA LM ANTÔN NGUYỄN VĂN ĐỘ

Cửa Thánh mở – Niềm vui Chúa ra đời SUY NIỆM ĐÊM GIÁNG SINH (Lc …