Home / Suy Niệm Lời Chúa / Suy niệm Tin Mừng LỄ CHÚA HIỂN LINH, năm A, của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy

Suy niệm Tin Mừng LỄ CHÚA HIỂN LINH, năm A, của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy

 

LỄ HIỂN LINH

(Mt 2,1-12)

 

I- TÀI LIỆU GỢI Ý

1.Bêlem cách Giêrusalem 6 dặm về phía namHuongveBeLema

Xưa Bêlem gọi là Ephrath hay Ephratah. ‘Belem’ có nghĩa là ‘nhà bánh’ cao 2.500 bộ, phì nhiêu. Bêlem là nơi Giacóp chôn Rakhen (Kn 48,7; 35,20), nơi bà Rút kết hôn với Boaz (Rút 1,22); từ đây, Rút có thể xem thấy quê bà là Moab, bên kia thung lũng Giođan. Nhất là Bêlem là quê Đavít (1Sam 16,1; 17,12; 20,6); tại giếng Bêlem, Đavít khát trong thời chạy trốn (2Sam 23,14-15). Sau này Bêlem được tăng cường bởi Rehoboam (2Chro 11,6); hơn nữa người Do thái còn cho Bêlem là nơi của Đavít, Đấng giải thoát dân, sẽ đến (Mic 5,2). Giúttinô sống vào những năm 150, nói ‘Chúa Giêsu sinh trong một hang gần Bêlem’ (Justin Martyr: Dialogue with Trypho 78, 304). Vì nhà ở Bêlem thường xây trên sườn đồi, có hang bên dưới, nên rất có thể Chúa đã sinh ra trong một hang như thế. Trên đồi đó, có thánh đường ‘Giáng Sinh’. Hoàng đế Hadrian cố ý xúc phạm đền thờ này, xây trên đó đền thờ thần Adonis. Đầu thế kỷ 4, khi đế quốc Rôma trở lại Kitô giáo, hoàng đế đầu tiên là Constantine, lại xây một thánh đường lớn trên đền thờ đó. Thánh đường đó nhiều lần được trùng tu, sửa đổi cho đến nay. H.V.Morton kể việc ông thăm nhà thờ ‘Giáng Sinh’ tại Bêlem như sau: “ông tới một bức tường lớn có một cửa nhỏ phải khom lưng mới qua được; bên kia cửa là một thánh đường. Vào trong, dưới bàn thờ có một hang, xuống hang đó, người ta thấy một lũng nhỏ dài 12 thước 79 (14 yards), rộng 3 thước 65 (4 yards) với những đèn bạc cháy sáng. Dưới nền có hình một ngôi sao, chung quanh có hàng chữ Latinh ‘đây là nơi Chúa Giêsu Kitô đã sinh ra do Nữ Đồng Trinh Maria’’. Khi Chúa hiển vinh ngự đến, Người được sinh ra trong chuồng bò lừa. Hang trong thánh đường Bêlem có thể là chuồng bò lừa đó. Đúng sai không cần biết, nhưng một biểu tượng đẹp, gói ghém trong cửa hẹp kia. Đó là muốn vào Thánh Đường Giáng Sinh, người ta phải khom lưng, nghĩa là phải khiêm cung, quì gối. Tới gặp hài nhi Giêsu, ta cũng phải khom lưng quì gối, nghĩa là khiêm cung tôn kính…[1]

2.Herodotus (1: 101,132) cho biết về ba vị chiêm tinh gia

Các ông đến từ bộ lạc Median, phần đất thuộc đế quốc Ba Tư. Đầu tiên, các ông cố gắng lật đổ Ba Tư, nhưng thất bại. Từ đó, các ông bỏ tham vọng và trở nên bộ tộc hàng tư tế. Tại Ba tư, các ông trở thành những người như giới Lêvi trong xã hội Do Thái, thành những thầy dạy dỗ các vua Ba Tư. Tại Ba Tư không thể dâng của lễ nếu không có một trong các ông hiện diện; các ông là những người thánh, khôn ngoan, giỏi triết, thuốc, khoa học tự nhiên. Họ thành những nhà tiên tri, giải đáp các giấc mơ. Về sau, Magus có nghĩa kém hơn, là bói toán, ảo thuật, lang băm, như Elymas (Cv 13,6.8), Simon Magus (Cv 8,9.11). Thời đó người ta tin vào thiên văn. Nhìn trăng sao, người ta có thể tiên đoán những sự việc trong tương lai. Họ tin số phận con người cũng tùy thuộc vào trăng sao. Bình thường trăng sao, tinh tú vận chuyển điều hòa, nên mỗi khi có hiện tượng khác lạ xẩy ra, người ta cho đó là dấu Thiên Chúa can thiệp, báo trước việc lạ lùng nào đó. Không biết ba nhà chiêm tinh thấy ngôi sao sáng nào. Chỉ biết vào năm 11 trước Chúa, sao chổi Halley xuất hiện. Vào năm 7 trước Chúa, Saturn và Jupiter giao nhau. Từ năm 5 tới năm 2 trước Chúa, xẩy ra một hiện tượng thiên văn bất thường. Vào những năm trên, ngày đầu tiên tháng Egyptian là Mesori, Sirius, ngôi sao chổi, sáng khác thường, mọc lên như hình xương sống lúc mặt trời mọc. Ngày nay, tên Mesori có nghĩa là một hoàng tử sẽ sinh ra, và với những thiên văn gia thời đó thì chắc chắn đó sẽ là một vua vĩ đại. Ta không thể nói sao nào mà ba chiêm tinh gia đã thấy, nhưng nghề của các ông là quan sát bầu trời, và sao sáng khác lạ đối với các ông là dấu vị vua sẽ sinh ra.[2] 

3.Ba nhà chiêm tinh đi tìm kiếm vị tân vương

Ba ông đi tìm là một chuyện lạ; và lạ nữa là cũng thời ấy, khắp nơi người ta trông đợi một vua sẽ sinh ra. Cả những sử gia Rôma cũng trông đợi, vì sau đó không lâu, Suetonius đã viết ‘một niềm tin khắp miền đông là sẽ có vua sinh từ Giuđê để cai trị thế giới’ (Suetonius, Life of Vespasian, 4,5). Tacitus cũng nói ‘người ta tin chắc chắn là vào chính thời gian này, Phương Đông sẽ nên quyền thế và những nhà lãnh đạo từ Giuđê sẽ cai trị hoàn vũ’ (Tacitus: Histories 5,13). Người Do Thái cũng tin là một người trong họ sẽ cai trị trái đất (Gioxép, Wars of the Jews 6: 5,4). Ít lâu sau, ta lại thấy Tiridates, vua Armenia, thăm Nêro tại Lamã có các chiêm tinh gia (magi) đi theo (Suetonius, Life of Nero, 13,1). Tại Athens, các chiêm tinh gia dâng lễ hy sinh ghi nhớ Plato (Seneca. Epistles 58, 31). Hầu như cùng thời Chúa sinh ra, Augustus, hoàng đế Rôma đã được chào mừng như vị cứu tinh thế giới, và Virgil, thi sĩ Rôma, viết Bài Hát Đối (Eclogue) thứ bốn, được coi như Bài Hát Đối về Đấng Thiên Sai, về thời vàng son sẽ đến. Như thế, việc ba chiêm tinh gia tìm kiếm vị tân vương không có gì lạ. Lúc Chúa Kitô đến là lúc khắp thế giới đang mong đợi. Con người, vì biết tự sức không thể đạt tới thời vàng son, đang khao khát chờ mong một vị cứu tinh. Và Người đến, toàn thế giới đều vây quanh Người bên máng cỏ. Đó là dấu đầu tiên, là biểu tượng cuộc chiến thắng của Chúa Kitô.[3]

4.Ba chiêm tinh gia đến thờ lạy

Lưu truyền nói rằng sau khi dẫn đường cho ba chiêm tinh gia đến Bêlem, ngôi sao đã xa xuống giếng Bêlem, và ngày nay thỉnh thoảng vẫn được những ai có lòng trong sạch nhìn thấy. Lúc đầu, lưu truyền đông phương cho là có 12 vua nhưng hiện giờ chỉ có ba. Ba chiêm tinh gia là dựa vào ba của lễ. Lưu truyền sau này các ông là ba vua. Lưu truyền còn nói rõ các ông là Caspar, Melchior và Balthasar. Melchior già, tóc bạc, râu dài, dâng vàng; Caspar, trẻ, không râu, mặt đỏ, dâng hương; Balthasar đen sậm, râu chúm chím, dâng mộc dược. Ngay từ xưa, người ta đã thấy của lễ ba vua dâng cho Chúa là xứng hợp:

4.1.Vàng, của lễ cho vua

Seneca nói xưa tại Parthia không ai đến với vua mà không dâng của lễ. Và vàng, quí nhất trong các loại kim khí, là của lễ xứng hợp để dâng cho Chúa là vua mọi người. Đô đốc Nelson luôn đối xử với bại quân một cách rất nhã nhặn. Sau trận thủy chiến, đoàn quân của Nelson chiến thắng. Người ta dẫn đô đốc chiến bại đến trước Nelson tại tổng hành dinh trên chiến hạm. Nghe biết Nelson là người nhân từ, đô đốc chiến bại tiến đến, giơ tay bắt tay Nelson. Nelson vẫn thõng tay, ung dung nói “hãy đưa kiếm trước rồi hãy bắt tay”. Trước khi kết thân với Chúa Kitô, người ta phải suy phục Người đã.

4.2.Nhũ hương, của lễ cho tư tế

Khi thờ phượng, dâng của lễ, khói hương thường nghi ngút trong Đền Thờ. Nhiệm vụ của tư tế là mở đường cho con người gặp gỡ Thiên Chúa. Tiếng Latinh pontifex có nghĩa là người bắc cầu, xây cầu. Tư tế là người bắc cầu giữa Thiên Chúa và con người. Đó là vai trò của Chúa Giêsu, đấng mở đường tới Thiên Chúa…

4.3.Mộc dược, của lễ cho người chết

Mộc dược được dùng để tẩm liệm người chết. Chúa Giêsu xuống trần để chết. Holman Hunt có bức ảnh Chúa Giêsu thời danh. Ảnh vẽ Chúa Giêsu đứng trước tiệm thợ mộc tại Nadarét. Lúc đó Chúa Giêsu còn trẻ. Người đứng trước cửa, giang tay với hai bên cửa. Đàng sau là bức tường, ánh chiều tà chiếu hình Người như hình thập giá. Gần đó Maria đứng nhìn với dòng lệ tuôn rơi… Chúa đến vì con người, để chết cho con người. Ngay từ máng cỏ, Chúa Giêsu đã tỏ ra Người là Vua, là Thượng Tế và là Đấng Cứu Thế.[4]

 

II- CHIA SẺ TIN MỪNG

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Matthêu cho chúng ta thấy: Hêrôđê và các nhà đạo sĩ đã có những thông tin về nơi Chúa sinh ra tại Bêlem, xứ Giuđa vì trong sách ngôn sứ Mikêa 5,1 có chép rằng: “phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, người đâu phải là mảnh đất nhỏ nhất của Giuđa, vì nơi ngươi, vị thủ lãnh chăn đắt Israen dân Ta sẽ ra đời”

Chúng ta thấy, cả vua Hêrôđê và các nhà đạo sĩ đều đi tìm Chúa, muốn gặp được Chúa, nhưng tại sao chỉ có các nhà đạo sĩ mới gặp được Chúa? Thưa, lý do chính là con người của họ.

Vậy hêrôđê là con người như thế nào?

Hêrôđê nửa là Do Thái, nửa là Êđôm, trong huyết quản của nhà vua có dòng máu Êđôm.

Vua là một lợi khí đắc lực cho người Rôma trong những cuộc chiến tranh và nội chiến ở Palestine, được người Rôma tin dùng. Hêrôđê được chỉ định làm tổng đốc năm 47 TCN. Năm 40 TCN, Hêrôđê được phong làm vua và cai trị đến năm 4 TCN. Ông nắm quyền khá lâu và được gọi là Hêrôđê đại đế và rất xứng đáng với danh hiệu ấy. Ông là người duy nhất ở Palestine đã thành công trong việc trị an và đem lại trật tự cho một xứ hỗn loạn. Ông là nhà kiến trúc đại tài, chính ông đã xây đền thờ Giêrusalem. Có thể ông cũng là một người rộng lượng. Trong thời khó khăn, ông miễn thuế cho dân và trong cơn đói kém năm 25 TCN, ông đã cho nấu chảy cái đĩa vàng lớn của mình để mua ngũ cốc phát cho dân đói khổ. Nhưng Hêrôđê có tính đa nghi kinh khủng. Ông là người luôn ngờ vực. Càng về già ông càng đa nghi đến độ có kẻ đã gọi ông là “ông già sát nhân”. Ông nghi ai là đối thủ tranh chấp quyền hành thì người ấy bị loại trừ ngay lập tức. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander Aristobulus cũng bị ông sát hại. Bản chất man rợ và cong quẹo của Hêrôđê được thấy rõ hơn trong những chuẩn bị của ông trước khi qua đời. Khi được bảy mươi tuổi biết mình sắp chết, ông rút về thành Giêrikhô, thành xinh đẹp nhất của ông, rồi truyền lệnh bắt một số người nổi danh nhất trong thành Giêrusalem, bịa đặt tội trạng và hạ ngục. Ông truyền lệnh phải giết hết những người ấy khi ông lâm chung. Ông nói cách tàn nhẫn rằng vì ông biết khi ông chết chẳng ai thèm than khóc, nên nhất định phải làm sao cho có nước mắt đổ ra lúc ông chết.[5] Một con người độc ác như thế làm sao gặp được Chúa.

Còn các đạo sĩ là ai?

mt2112aKhi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông tìm đến tỏ lòng tôn kính Ngài. Theo Herodotus (1,101,132), Magi nguyên là một chi phái Mêđi. Người Mêđi là một phần dân thuộc đế quốc Ba Tư. Họ cố gắng lật đổ người Ba Tư đem chính quyền về cho người Mêđi. Mưu toan thất bại, từ đó người Magi từ bỏ mọi tham vọng về quyền hành hoặc uy tín và trở nên chi phái tư tế.

Các Magi đối với dân Ba Tư cũng giống như người Lêvi đối với dân Israel vậy. Họ trở thành thầy dạy và giáo dục cho các vua Ba Tư. Tại Ba Tư không được dâng lễ vật nếu không có một Magi hiện diện, họ là người của sự thánh thiện và khôn ngoan.

Những người Magi này rất giỏi về triết học, y khoa và khoa học tự nhiên. Họ cũng là những thầy bói và người giải mộng. Về sau, chữ Magi càng ngày càng mang nghĩa thấp kém hơn và trở thành chữ thầy bói, phù thủy và lang băm, như Êlyma, thuật sĩ (Cv 13,6.8), Simon người được mệnh danh là thuật sĩ (Cv 8,9-11). Nhưng các Magi không như vậy, họ là những bậc thánh, cũng là những nhà hiền triết đi tìm chân lý.

Các đạo sĩ đã khao khát gặp Chúa, để thờ lạy Chúa. Các đạo sĩ đã ước ao dâng lên Chúa những tặng vật cao quý nhất là vàng nhũ hương và mộc dược. Chính vì vậy, các đạo sĩ đã gặp được Chúa. Còn Hêrôđê cũng muốn gặp được Chúa, nhưng để giết Ngài. Hêrôđê sợ Chúa Giêsu sẽ can thiệp vào đời sống của kinh thành, Hêrôđê sợ Chúa Giêsu sẽ can thiệp vào quyền thế và ảnh hưởng của mình. Bởi vậy, thôi thúc  trong ông là giết Ngài.

Ngày nay cũng vậy vẫn còn nhiều người muốn tiêu diệt Chúa Giêsu, vì họ chỉ thấy Ngài là người xen vào đời sống họ, không cho họ làm theo điều mình thích, không cho họ thỏa mãn các đam mê, các dục vọng của họ, nên họ muốn giết Ngài. Cũng như Hêrôđê, những con người ấy, không bao giờ gặp được Chúa. Amen

Lm Giuse Đỗ Văn Thụy

[1] Lm Giuse Phạm Văn Tuynh,OP. Theo Chúa Kitô, Quyển hai Tập một, trg.94

[2] Lm Giuse Phạm Văn Tuynh,OP. Theo Chúa Kitô, Quyển hai Tập một, trg.94-95

            [3] Giuse Phạm Văn Tuynh,OP. Theo Chúa Kitô, Quyển hai Tập một, trg.95

            [4] Giuse Phạm Văn Tuynh,OP. Theo Chúa Kitô, Quyển hai Tập một, trg.97-98

             [5] William Barclay, Lễ Hiển Linh

Xem thêm

Lc 2, 1-14

SUY NIỆM TIN MỪNG LỄ ĐÊM GIÁNG SINH, CỦA LM ANTÔN NGUYỄN VĂN ĐỘ

Cửa Thánh mở – Niềm vui Chúa ra đời SUY NIỆM ĐÊM GIÁNG SINH (Lc …