Kiên định là một đức tính cần thiết tập luyện và duy trì trong cuộc sống, cả đời thường và tâm linh. Để xây dựng đức tính này, điểm cốt lõi là cần đặt ra mục đích và quyết tâm hoàn tất, bắt đầu bằng việc xác định ước muốn sống kiên định như thế nào và hướng tới mục đích đó. Dần dần, khi đã thực sự kiên định, hãy cố gắng duy trì động lực và tự có trách nhiệm với chính mình. Trong quá trình tập luyện tính kiên định, cũng rất có thể phải thay đổi suy nghĩ để luôn sống lạc quan và làm việc một cách hiệu quả.
Con đường nào cũng có những loại “chông gai” đặc trưng, không là thảm lụa. Vì thế, rõ ràng rất cần kiên định, nói chung là luôn phải tự khó với chính mình. Chúa Giêsu đã từng động viên: “Đừng xao xuyến!” (Ga 14:1; Ga 14:27) và Thánh Phêrô cũng khuyến khích như vậy. (1 Pr 3:14) Điều đó cũng có nghĩa là không hèn hoặc không sợ hãi. Muốn vậy thì phải can đảm, muốn can đảm thì phải mạnh mẽ, muốn mạnh mẽ thì phải cầu xin Thiên Chúa Ngôi Ba, Đấng ban sức mạnh – một trong các ơn của Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là Thần Khí, sống là nhờ thần khí: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì.” (Ga 6:63a) Lời Chúa Giêsu cũng là thần khí và là sự sống. (Ga 6:63b) Nhưng đôi khi người ta có thể ảo tưởng mà lầm lẫn, cái gì cũng bảo là “Ý Chúa.” Vì thế, Thánh Gioan Tông Đồ đã khuyên chúng ta PHẢI cảnh giác và đưa ra cách nhận biết: “Anh em ĐỪNG cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy CÂN NHẮC các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có NHIỀU NGÔN SỨ GIẢ lan tràn khắp thế gian. Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào TUYÊN XƯNG Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào KHÔNG TUYÊN XƯNG Đức Giêsu thì không bởi Thiên Chúa, đó là thần khí của tên phản Kitô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và HIỆN NAY nó ở trong thế gian rồi.” (1 Ga 4:1-3) Đơn giản mà nhiêu khê, dễ mà khó.
Quả thật, lời cảnh báo của Thánh Gioan rất đáng sợ. Chúng ta cũng đã và đang thấy nhiều thứ giả, trong đó cũng có đủ loại “người giả” – còn đáng sợ hơn các loại giả khác. Những điều tương tự cũng đã được Đức Mẹ nhiều lần tiên báo. Do đó, sự cảnh giác càng cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết, đặc biệt trong thế kỷ XXI đầy những khó khăn này, càng văn minh càng nhiêu khê. Thời nay mệnh danh là thời @ – mà đúng là cái chữ @ nó “vòng vo” rắc rối lắm, đôi khi giống như cứ loanh quanh trong mê cung, không biết lối ra. Và hơn bao giờ hết, người ta càng cần kiên định hơn.
Dù đời và đạo, cuộc sống luôn có nhiều thứ khiến chúng ta dao động, chia trí. Thật vậy, ma quỷ có thiên hình vạn trạng, nó len lỏi vào bất cứ nơi nào, thậm chí ma quỷ có thể cám dỗ người ta cảm thấy mình đạo đức và thánh thiện. Đó là dạng cám dỗ rất nguy hiểm, vì là dạng GIẢ DANH GIẢ NGHĨA. Thà rằng nó cám dỗ chúng ta khô khan, phạm tội, hoặc “quay lưng” lại với Chúa thì chúng ta dễ nhận biết mà tránh, đằng này nó lại làm cho chúng ta cảm thấy rất gần Chúa, thế mới đáng sợ, và chúng ta phải rất tỉnh thức. Đừng ảo tưởng, vì rất khó phân biệt, như Thánh Phaolô nói: “Lạ gì đâu! Vì chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11:14)
Có một người quen ở Mỹ cho biết rằng em gái của họ lấy chồng là Phật tử, người chồng này làm cho cô ta bỏ đạo Công giáo và nói xấu Công giáo đủ thứ. Một thanh niên tại Saigon bỏ đạo Công giáo rồi cạo đầu và quy y, anh ta bảo rằng theo Công giáo phải giữ nghiêm luật nên “căng” quá, theo Phật giáo “khỏe” hơn nhiều. Còn tại Đồng Nai, một nữ tu bỏ đạo Công giáo rồi đi lập chùa riêng và làm ni cô trụ trì. Những người này không chỉ yếu đức tin Công giáo, mà còn thiếu tính kiên định.
Đừng vội hoang mang khi thấy có những trường hợp như vậy. Đó chỉ là những trường hợp hiếm hoi. Thật ra họ chỉ bất mãn một vấn đề nào đó vì họ không được thỏa mãn ý riêng, đồng thời họ là những người “yếu bóng vía” và chẳng hiểu rõ Công giáo, chỉ là dạng “lý sự cùn,” đầu óc thiển cận hoặc như “ếch ngồi đáy giếng” mà thôi. Những “ông tổ” của các đạo khác liên quan Kitô giáo cũng vậy, họ chỉ muốn theo ý riêng mà ly khai khỏi Công giáo. Rồi cũng chẳng đâu vào đâu, nhưng họ vẫn cố chấp.
Những người thiển cận hoặc nông cạn mới như vậy, còn những người sâu sắc không như vậy, bởi vì người ta càng giỏi thì càng nhận biết Thiên Chúa và tin yêu Ngài. Đa số các bác học đều là những người tin vào Thiên Chúa. Khoảng hơn 40 năm trước, chính Đức cố TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình (1910-1995) đã rửa tội cho một Thượng tọa Phật giáo cao niên vào chính đêm Chúa giáng sinh. (Liên quan chuyện “theo đạo” nên liên tưởng, nhưng tiếc rằng lâu quá rồi nên không còn nhớ tên ông cựu họ Thích này). Hơn 20 năm trước, có một ni cô chán “ăn chay trường” rồi gia nhập Công giáo, sau đó cô này lấy chồng là người Công giáo. Vợ chồng họ người Đồng Nai, nay họ vẫn sống hạnh phúc tại Bình Dương. Và còn rất nhiều những trường hợp tương tự, từ khắp nơi trên thế giới, không thể kể hết.
Có điều vô cùng đặc biệt: Không một người nào mà dám nói “tôi là Thiên Chúa” khi lập đạo, chỉ có Chúa Giêsu mới xác định như vậy. Cũng chẳng có ai làm được những phép lạ như Ngài đã làm. Và cũng chỉ có Ngài dám nói: “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống.” (Ga 14:6) Đặc biệt nhất là chẳng có ai bị giết chết mà sống lại như Ngài. Chỉ vài điều như vậy thôi cũng đủ để chúng ta biết đâu là “chân lý thật” và đâu là “chân lý giả.” Càng ngày khoa học và khoa khảo cổ càng phát hiện những điều chính xác như Kinh Thánh đã đề cập. Đó là chứng cớ minh nhiên, những kẻ phủ nhận chỉ là cố chấp. Và còn các phép lạ Thánh Thể và những lần Đức Mẹ hiện ra nữa…
Bằng chứng cụ thể trong sách Công Vụ: Khi nghe ông Phêrô rao giảng việc ăn năn sám hối, chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội, và nhận được ân huệ là Thánh Thần, ngay lúc đó đã có KHOẢNG BA NGÀN người theo đạo. (Cv 2:38-41) Đâu có thể đơn giản mà có số người đông như vậy cùng gia nhập đạo một lúc, cũng đâu phải họ theo đạo cho vui hoặc có lợi về vật chất, đặc biệt là không ai dụ dỗ họ theo đạo để được giàu sang, danh vọng,… Và rồi ngày nay, hằng tháng tại nhiều nhà thờ Công giáo vẫn có những người trưởng thành (chứ không nói trẻ em) vui mừng lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Đó là những bằng chứng hùng hồn, là phép lạ thực sự mà Chúa Thánh Thần đang tác động không ngừng trong Giáo Hội, Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô.
Có những người gia nhập Công giáo không chỉ là người đã thực sự trưởng thành (tâm sinh lý), mà còn có những người lớn tuổi, họ sống đạo rất tốt với một đức tin trưởng thành và vững mạnh. Đặc biệt là có những người theo đạo Công giáo rồi đi tu trở thành tu sĩ hoặc linh mục – một người nổi bật là Lm Thiên Phong Bửu Dưỡng. [1] Họ đã trưởng thành, chắc chắn không ai có thể “dụ dỗ” được họ nếu họ không thực sự tin vào Đức-Giêsu-nhập-thể-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh. Ai cảm thấy còn “đắn đo,” hãy cố gắng giữ vững lòng tin, hãnh diện về Đức Tin Công giáo, và đừng dao động vì những chuyện không đâu. [2]
Những người càng giỏi càng tìm hiểu và nhận ra Thiên Chúa. Giáo Hội Công giáo đặt tiêu chuẩn cao về luân lý, rất cảm thông với người bất đồng ý kiến, nhưng KHÔNG NHƯỢNG BỘ bất kỳ áp lực nào. Tất cả chúng ta đều là tội nhân, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Hòa Giải để tha thứ tội lỗi, để thương xót và ban ân sủng cho chúng ta, giúp chúng ta sống đời sống luân lý tốt hơn. Công giáo mệnh danh là Đạo Yêu Thương, vì Thiên Chúa là tình yêu. (1 Ga 4:8 và 16)
Vô tri bất mộ. Con mắt liên quan lý trí, liên quan đức tin. Kinh Thánh xác định và lý giải: “Hết những ai không chịu nhìn nhận Thiên Chúa, tự bản chất là những kẻ ngu si. Từ những vật hữu hình tốt đẹp, chúng không đủ khả năng nhận ra Đấng hiện hữu, và khi chiêm ngắm bao công trình, chúng cũng không nhận biết Đấng Hoá Công. Thế mà, lửa với gió, hay làn khí thoảng qua, hay tinh tú bầu trời, hay nước chảy cuồn cuộn, hay đèn trời thắp sáng, chúng lại coi là thần, là những bậc quản cai hoàn vũ.” (Kn 13:1-2) Rất rõ ràng, rất rạch ròi!
Ngay trong thời Giáo Hội sơ khai, khi Chúa Giêsu đã phục sinh và số môn đệ thêm đông, các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo CẦU NGUYỆN và PHỤC VỤ Lời Thiên Chúa.” (Cv 6:2-4)
Trình thuật Cv 6:5-7 cho biết: “Đề nghị đó được mọi người tán thành. Họ chọn ông Têphanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Philípphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, một người ngoại quê Antiôkhia đã theo đạo Do Thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giêrusalem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.” Đó chính là Nhóm Bảy Người, tức là các Phó tế đầu tiên của Giáo Hội, trong đó có Phó tế Têphanô về sau chịu tử đạo. Không chỉ có Phó tế Têphannô mà còn biết bao vị tử đạo khác đã xả thần vì danh Đức Giêsu Kitô, ở mọi nơi và mọi thời.
Niềm hãnh diện của Kitô hữu “không giống ai” chút nào, đôi khi người ta còn coi đó là dại dột hoặc ngu xuẩn, nhưng không phải vậy. Hãnh diện gì? Thánh Phaolô cho biết: “Vinh quang của tôi là Thập Giá của Đức Giêsu Kitô – Mea Gloria Est Crux Christi.” (Gl 6:14) Chắc chắn không ai và không tôn giáo nào có dạng vinh quang “ngược đời” như Kitô giáo. Người ta sợ đau khổ, nhưng khi đã cảm nhận được đau khổ, người ta lại bị đau khổ thu hút. Chắc chắn rằng những người không có niềm tin Kitô giáo sẽ chẳng bao giờ hiểu được điều đó, thế nên người vô thần bảo tôn giáo là thuốc phiện đã “ru ngủ” các Kitô hữu. Văn sĩ trào phúng Mark Twain (1835-1910, Mỹ) nhận định rất thú vị: “Chẳng thà mình không nói để người ta tưởng mình ngu, còn hơn mở miệng ra để người ta không còn nghi ngờ gì nữa.”
Thực sự cảm nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa, Thánh Vịnh gia hân hoan mời gọi: “Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen. Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm, kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt.” (Tv 33:1-2) Và rồi không thể lặng im, Thánh Vịnh gia còn giải thích: “Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất.” (Tv 33:4-5)
Là tình yêu, Thiên Chúa thương xót chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, (Rm 5:8) còn thù nghịch với Ngài, (Rm 5:10) thậm chí Ngài còn chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu thương đó quá lớn lao. Thật vậy, Ngài luôn quan tâm chúng ta: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn.” (Tv 33:18-19) Và còn hơn vậy, Ngài biết rõ từng người: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi.” (Ga 10:14)
Thế nhưng có điều đáng quan ngại về chính chúng ta, rất cần xem lại chính mình, như Thánh Giacôbê đã phân tích: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ ĐẠO ĐỨC HÃO.” (Gc 1:26) Sở dĩ như vậy vì chúng ta vốn dĩ là “kẻ xấu.” (Lc 11:13)
Vừa khuyên nhủ vừa động viên, Thánh Phêrô nói: “Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. Quả thật, có lời Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Sion một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng.” (1 Pr 2:4-6) Lòng thương xót của Thiên Chúa quá đỗi kỳ diệu, chúng ta không thể nào hiểu nổi. Suốt đời xin tín thác và tạ ơn Ngài!
Về hạnh phúc của những người được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần – các Kitô hữu, Thánh Phêrô cho biết thêm: “Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy. Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.” (1 Pr 2:7-9) Có nhiều dạng ơn thiên triệu, nói theo bình dân là “ơn gọi,” và ơn gọi nào cũng cao cả: Ơn gọi tu trì, ơn gọi kết hôn, ơn gọi độc thân,… Ơn gọi nào cũng là để hoàn tất sứ mạng theo kế hoạch của Thiên Chúa. Ngài cũng nói với mỗi Kitô hữu như đã nói với Gia-cóp xưa: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (Is 43:1)
Thật tuyệt vời, nhưng Thiên Chúa cần chúng ta vững chí tích cực cộng tác, như Chúa Giêsu đã động viên: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (Ga 14:1) Cuộc sống đã và đang chứng tỏ cho chúng ta thấy như vậy, đúng là chỉ có Thiên Chúa là cứu cách và cùng đích, thiếu Đức Kitô thì chúng ta không thể làm được gì, dù là điều nhỏ nhoi. (x. Ga 15:5) Chúng ta có hoang mang hoặc lo sợ thì cũng chẳng “chuyển hóa” được gì, đúng như có lần Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được.” (Mt 5:36)
Vì thế, tín nhân phải vững chí sống theo lời khuyên của Chúa Giêsu: “Đừng xao xuyến!” Nói theo kiểu nói ngày nay: “Cứ vô tư mà sống!” Tại sao? Bởi vì lo bạc râu, sầu bạc tóc. Mà có lo cũng chẳng được gì, rồi cái gì đến sẽ đến, lo nhiều chỉ khổ thêm mà thôi. Chúa Giêsu khuyên “đừng xao xuyến” nghĩa là Ngài bảo chúng ta phải vững chí tin vào sự TIỀN ĐỊNH và QUAN PHÒNG của Ngài. Thiết tưởng có điều nên lưu ý: “Không xao xuyến” nghĩa là đừng chạy theo những cái mà người ta cho đó là “sự lạ,” dạng này thường xuyên được người ta “chú ý,” nếu vậy thì chưa thực sự tin vào Thiên Chúa, chưa thực sự tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót.
Chúa Giêsu căn dặn: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:2-3) Người đời cũng biết nhận định: “Sinh ký, tử quy” (sống gởi, thác về). Thế gian chỉ là chuyến lữ hành về Thiên Đàng, như Thánh nữ Catarina đã khuyên: “Cuộc đời như chiếc cầu, hãy ĐI QUA chứ ĐỪNG DỪNG LẠI trên đó.” Chắc chắn chết không là “dấu chấm hết” mà là cuộc biến đổi, là “ngưỡng” bước vào sự sống vĩnh hằng. Thật hạnh phúc cho chúng ta vì đã được chính Chúa Giêsu hứa: “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” Đúng là hạnh phúc của mọi hạnh phúc, hơn cả mức tuyệt vời.
Ngày xưa, khi Chúa Giêsu bảo: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.” Ông Tôma đã ngạc nhiên và hỏi ngay: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” Ngài cười hiền: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6) Đây là câu “nổi tiếng” trong Kitô giáo, được trích dẫn rất nhiều, và cũng là niềm hy vọng chắc chắn của những người thực sự tin vào Con Thiên Chúa, Đấng nhập thể làm người, chịu chết và Phúc Âm. Rồi Ngài nói thêm: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” (Ga 14:7)
Sau đó, ông Philípphê xin Thầy Giêsu tỏ cho thấy Chúa Cha để được mãn nguyện. Nhưng Ngài trách ông đã ở với Ngài bao lâu rồi mà còn “hỏi ngớ ngẩn” như vậy. Rồi Ngài xác định: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” (Ga 14:9) Chắc chắn đó là cách hiểu vượt quá tầm hiểu của phàm nhân, nếu chúng ta ở bên Chúa Giêsu hồi đó thì chúng ta cũng vẫn “ngớ ngẩn” như Tông đồ Philípphê mà thôi, nhưng có lẽ ngày nay chúng ta cũng chưa hơn người xưa. Buồn thật!
Chính Chúa Giêsu cũng đang nói với mỗi chúng ta qua lời giải thích với ông Philípphê và các tông đồ khác: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” (Ga 14:10-12) Có vẻ dài mà không dài, mà là mức độ cần thiết.
Về tầm quan trọng của Đức Tin, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh một lần nữa. Thật vậy, khi có đủ niềm tín thác vào Thiên Chúa – Đấng giàu lòng thương xót luôn quan phòng và tiền định cho mỗi người theo ơn gọi riêng (ơn thiên triệu), người ta sẽ thanh thản và vững chí sống lời khuyên của Thầy Giêsu trong mọi hoàn cảnh. Thánh Vịnh gia minh định: “Chúa là gia nghiệp đời con.” (Tv 16:5-6) Ước gì mỗi Kitô hữu chúng ta cũng khả dĩ xác định như vậy!
Lạy Thiên Chúa, xin ban thêm đức tin và lòng can đảm để chúng con không bị dao động trước mọi nghịch cảnh, ngay cả khi đối diện với kẻ thù, mặc dù chúng con chỉ là bụi tro dám làm bận mắt Ngài. Xin làm cho chúng con nên thánh theo kế hoạch mầu nhiệm của Ngài, xin ban Thánh Thần để chúng con vững chí bước đi trên hành trình đức tin. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
[1] Lm Bửu Dưỡng (OP, 1907-1987). Cậu ấm Bửu Dưỡng thuộc dòng dõi hoàng gia triều Nguyễn, là cháu trực hệ đời thứ năm của vua Minh Mạng. Thân phụ là cụ Ưng Trình, đại thần Cơ Mật Viện và đại thần Tôn Nhơn Phủ (1936) và Thượng Thư. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Như Uyển, cũng dòng dõi quan lại cấp Thượng Thư.
Cậu Bửu Dưỡng là con trai thứ năm. Thiếu thời, cậu học trường Quốc Học Huế, rồi trường Cao Đẳng Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp, cậu trở về Huế làm thông phán sở Bưu Chính. Sinh trưởng trong gia đình hoàng tộc và tôn sùng đạo Phật, Bửu Dưỡng cũng rất ác cảm với Công giáo, nhưng “duyên Trời” ấn định khác.
Thượng tuần tháng 5-1928, cậu Bửu Dưỡng lên đường ra Quảng Trị, tìm lên vùng núi Phước Sơn, xin học giáo lý để nhận bí tích Rửa tội và gia nhập dòng Xitô (Cistercians). Lm Bề Trên Henri Denis (Cố Thuận, người Pháp) trực tiếp dạy giáo lý. Lễ rửa tội được cử hành ngày lễ Đức Mẹ lên trời, 15-8-1928. Tân tòng Bửu Dưỡng nhận thánh hiệu Bôniphaxiô (Bonifacius), nghĩa là “bộ mặt đẹp.” Bề Trên Dòng chủ lễ, bên cạnh là Phó tế Tađêô Lê Hữu Từ (sau đó làm giám mục).
Sau một năm ở tập viện Xitô Phước Sơn, tu sinh Bửu Dưỡng vì sức khỏe yếu, đau bao tử, bị chứng tê thấp, lại bị mụt nhọt ở chân, được Bề Trên cho về nhà nghỉ dưỡng bệnh tại gia đình ở Huế. Trong thời gian này, thầy Bửu Dưỡng có nhiều quan hệ với Dòng Chúa Cứu Thế, với ý muốn nhập dòng này nhưng không thành…
Trong khi dịch giùm cho các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế một số bài giảng, thầy được đọc sách của Thánh TS Tôma Aquinô, thầy say mê triết lý và thần học của vị tiến sĩ nổi tiếng thuộc Dòng Đa Minh và có ý muốn theo chân ngài trong một dòng tu chuyên nghiên cứu và thuyết giảng đạo lý Kitô giáo.
Linh mục Bề Trên Dòng Chúa Cứu Thế giới thiệu thầy với Dòng Đa Minh mới đến Hà Nội lập dòng và thầy được chấp nhận để thử một thời gian. Mọi sự đều êm xuôi. Thầy Bửu Dưỡng cảm thấy mình đi đúng hướng và được gởi đi du học tại Pháp ở Dòng Đa Minh chi nhánh Lyon.
Sau một năm tập viện, ngày 26-11-1936, tu sinh Bửu Dưỡng là người Việt Nam đầu tiên của tỉnh Dòng Đa Minh Lyon được tuyên khấn dòng. Mặc dù mụt nhọt ở chân trở nên trầm trọng, thầy Bửu Dưỡng phải chịu giải phẫu cưa một chân, gắn chân giả. Bề Trên Dòng vẫn nhận phong chức linh mục cho thầy vì khả năng trí tuệ đặc biệt của thầy.
Lễ phong chức được cử hành ngày 2-2-1940. Từ đó, linh mục con dòng cháu giống của vua chúa triều Nguyễn không còn gì trăn trở băn khoăn mà thẳng đường trực chỉ dấn thân rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Giêsu cho đến trọn đời. Trong “Cuộc Hành Trình Của Đời Tôi,” Lm Bửu Dưỡng viết:
Trước kia tôi rất ghét Kitô giáo và không muốn có một liên hệ nào dù xa dù gần với các linh mục hay người có đạo. Tôi không bao giờ đọc một cuốn sách báo nào dính dáng đến đạo Công giáo. Cái ấn tượng ghét đạo đã khiến tôi trở thành cực đoan một cách vô lý, đến độ mỗi khi nhìn thấy chữ “Thiên Chúa,” tôi cảm thấy khó chịu và nếu có thể, tôi sửa thành chữ “Trời.” Khi dạy học cho các trẻ em, tôi chống lại việc dùng chữ Thiên Chúa. Lòng ác cảm đã khiến tôi trở thành điên rồ.
Có những thời gian tôi cảm thấy bất an trong đời sống, dường như tôi đang trải qua những cơn khủng hoảng của đời sống, cái tâm trạng này kéo dài trong suốt ba năm liền… Những lần tôi không giải trí với các bạn trong giờ giải trí, những đêm dài mất ngủ, những buổi chiều trống rỗng, sau khi nghe vài bản nhạc buồn… Tất cả những tâm trạng ấy đưa tôi đến việc tự hỏi: “Có phải Kitô giáo là một tôn giáo thật và tôi phải theo hay không?” Tôi phải theo? Thật là một điều ngoài trí tưởng tượng. Không bao giờ! Dù nó đúng, nó trật, nó hay… nhưng ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.”
Thế nhưng Ý Chúa nhiệm mầu, một Bửu Dưỡng thù ghét Công giáo đã trở thành một Bửu Dưỡng yêu mến Công giáo, và trở thành Linh mục Công giáo. Tôi được gặp ngài một lần, đã được đọc cuốn “Ý Nghĩa Sự Đau Khổ” của ngài và “Công Đồng Vatican III” do ngài viễn tưởng. Trí óc của ngài đúng là một học giả hiếm có. Lm Bửu Dưỡng còn là người mở Học viện Minh Đức (Thủ Đức) nổi tiếng một thời trước “sự cố” 1975.
[2] Xin xem thêm để củng cố Đức Tin Công Giáo: