Nói chuyện chết chóc thì… buồn lắm. Đúng là chán thật! Nhưng đó lại là sự thật và rất quan trọng. Ngày nào cũng có người chết, đủ kiểu chết, và chết ở bất cứ độ tuổi nào, đặc biệt quan ngại là chết bất cứ lúc nào.
Chắc hẳn Tháng Mười Một là tháng đặc biệt vì liên quan sự chết: Tháng Cầu Hồn và lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Có lẽ vì thế mà “chuyện chết chóc” lại hóa “chuyện thú vị”. Ai rồi cũng phải chết, chẳng tránh đâu cho khỏi, nghĩa là ai cũng phải trình diện Thiên Chúa – kể cả bè lũ Satan, để “báo cáo” về cuộc sống và hoạt động của mình: “Một ngày kia, con cái Thiên Chúa đến TRÌNH DIỆN Đức Chúa; Satan cũng đến trong đám họ để TRÌNH DIỆN Đức Chúa” (Gióp 2:1).
Vấn đề đáng quan ngại là người ta không chỉ chết một lần. Cái chết thứ nhất là cái chết bình thường theo sinh học, cái chết thứ hai quan trọng hơn và đáng sợ hơn, đó là cái chết về tinh thần: “Những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, làm phù phép, thờ ngẫu tượng, và mọi kẻ nói dối, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh cháy ngùn ngụt: đó là CÁI CHẾT THỨ HAI” (Kh 21:8). Thế nên Thánh Phaolô đã khuyến cáo: “Anh em hãy biết RUN SỢ mà GẮNG SỨC lo sao cho mình ĐƯỢC CỨU ĐỘ” (Pl 2:12).
Chết là khổ, càng sợ thì càng khổ; ngược lại, không sợ thì không khổ, đó là các vị tử đạo, chẳng hạn Thánh Phó tế Lô-giang (Laurence), bị nướng cháy một bên rồi ngài còn bảo lý hình trở bên cho… cháy đều. Ôi, lạy Chúa! Và còn biết bao vị tử đạo từ xưa tới nay ở khắp thế giới, ở Việt Nam cũng có hàng trăm ngàn vị chịu chết vì Đạo Thánh của Thiên Chúa.
- CÁI CHẾT TỰ NGUYỆN
Cái chết của các vị tử đạo là cái chết tự nguyện, thể hiện tình yêu vĩ đại mà Chúa Giêsu đã minh định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13).
Sách Ma-ca-bê, quyển II, chương 7, thuật lại cái chết của người mẹ và bảy anh em trong thời Cựu ước. Khi đó, vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Môsê cấm.
Qua đó, chúng ta thấy bà mẹ là người rất mực xứng đáng để chúng ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng.Làm sao bà đủ sức mạnh như vậy? Nhờ bà có vững tin và trông cậy nơi Đức Chúa. Dễ có mấy ai– dù nam hay nữ. Bà thực sự can đảm, đúng là bà yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Chỉ là lời lẽ của một phụ nữ, nhưng lại đầy chí khí nam nhi khi bà khuyến khích từng đứa con: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống, cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính ĐẤNG TẠO HOÁ CÀN KHÔN ĐÃ NẮN ĐÚC NÊN LOÀI NGƯỜI, và đã SÁNG TẠO NGUỒN GỐC MUÔN LOÀI. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ TRẢ LẠI cho các con HƠI THỞ VÀ SỰ SỐNG, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình” (2 Mcb 7:22-23). Lý lẽ đầy xác tín và tràn trề hy vọng, không hề ảo tưởng. Những người không có niềm tin Kitô giáo chắc hẳn cho ai hành động như vậy là ngu xuẩn, là điên rồ.
Lòng bà quặn thắt khi chứng kiến các con bị xử tử, nhưng bà vẫn hiên ngang vượt qua chính mình. Với lòng can trường, bà nghiêng mình về phía cậu út, vẫn hiên ngang chế nhạo tên bạo chúa, và âu yếm nói với cậu út: “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ” (2 Mcb 7:27-29).
Ôi, thật tuyệt vời! Những lời lẽ của bà chứa đầy kiến thức Kitô giáo và tràn đầy Thần Khí. Bà phân tích giản dị nhưng mạch lạc, với lý lẽ cứng rắn. Thật đáng khâm phục một nữ nhi liễu yếu đào tơ nhưng có tấm lòng rắn chắc như thép. Thật kỳ diệu vô cùng, chỉ có sức mạnh của đức tin và đức mến thì người ta mới có thể hành động như vậy!
- CÁI CHẾT HÈN và CÁI CHẾT SANG
Đã đành ai cũng phải chết, nhưng có những người chết khổ, chết hèn, còn có những người lại chết sang, chết sướng. Ôi chao, chết mà còn phân biệt giai cấp ư? Sao kỳ vậy? Đúng thế, trình thuật Lc 16:19-31 đề cập hai dạng chết đó qua dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó. Thánh Luca cho biết:
Có một ông NHÀ GIÀU kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, NGÀY NGÀY YẾN TIỆC LINH ĐÌNH. Lại có một người NGHÈO KHÓ tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, THÈM được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.
Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt KHỔ LẮM!”. Ông Áp-ra-ham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô SUỐT MỘT ĐỜI CHỊU TOÀN NHỮNG BẤT HẠNH. Bây giờ, La-da-rô ĐƯỢC AN ỦI nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một VỰC THẲM LỚN, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng KHÔNG ĐƯỢC, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng KHÔNG ĐƯỢC”.
Ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!”. Ông Áp-ra-ham đáp: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ thì họ sẽ ăn năn sám hối”. Ông Áp-ra-ham đáp: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe thì người chết có sống lại, họ cũng CHẲNG CHỊU TIN”.
Cũng là con người, thế mà kẻ thì sống khốn khổ, người thì sống sung sướng. La-da-rô nghèo mà phải khổ, khổ tới chết – chết khổ là chết hèn; còn người kia giàu có, tiền dư bạc thừa nên ăn chơi thỏa thích, ung dung tới chết – chết sướng nên vẫn sang. Thực tế cuộc sống cho thấy rõ như vậy. Người nghèo chết lặng lẽ, không mấy người đến phúng điếu, đúng là “buồn như đám ma”. Khổ thật! Còn người giàu chết rất… rầm rộ, cáo phó đăng các bào và các trang web, ai cũng biết, cờ xí giăng đầy, trống kèn inh ỏi, khách nườm nượp đến phúng điếu, đám tang mà “vui như mở hội”, lễ an táng đồng tế trang trọng, rất đông người tham dự. Sang thật!
Nhưng chính Chúa Giêsu đã từng nói: “Người nghèo bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Mt 26:11; Ga 12:8). Đúng vậy. Đó là cách Ngài “nhắc khéo” về động từ MỞ – việc bác ái tích cực và đích thực: Mở tấm lòng, mở đôi tay, mở hầu bao. Không chỉ như vậy, chính Ngài cũng đã từng khuyên “bán tài sản và đem cho người nghèo” (Mt 19:21), khi đãi tiệc thì “mời những người nghèo khó, tàn tật, què quật, đui mù” (Lc 14:13). Làm vậy để làm chứng về Thiên Chúa và được trở nên công chính. Liệu Chúa Giêsu có đùa vui? Không bao giờ! Ngài cũng chẳng nói bóng gió, mà Ngài nói rất thật – thật hơn cả sự thật.Đó là sống đạo chứ không chỉ giữ đạo, là sống đức ái – chia sẻ, cảm thông, hiệp thông,… như Thánh Phaolô nói: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12:15).
Dĩ nhiên Chúa KHÔNG ghét nhà giàu, Ngài chỉ ghét thái độ kiêu kỳ và tự mãn vì ỷ mình giàu có (chứ chưa chắc “sang” đúng nghĩa, có những người giàu mà “bần” lắm), cũng chỉ là ảo tưởng mà thôi, như Kinh Thánh đã đặt vấn đề: “Kiêu căng tự mãn đâu ích gì? Giàu sang hợm hĩnh nào được chi?” (Kn 5:8). Cách nói nghi vấn nhưng lại chính là cách nói xác định.
- CÁI CHẾT TIN TƯỞNG
Đó là cái chết của tướng cướp Dimas – người bị đóng đinh cùng lúc với Chúa Giêsu trên đồi Can-vê năm xưa.Y hành động ác nhưng cái bụng vẫn tốt, biết người và biết mình, chân thành và tin tưởng. Chúng ta gọi cái chết như vậy là “chết lành”. Trình thuật Lc 23:35-43 (≈ Mt 27:37-44; Mc 15:26-32) cho biết:
Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”. Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”. Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Đây là vua người Do Thái”.
Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”. Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”. Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”. Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”.
Cả đời Dimas chẳng ngán ai, lôi thôi là “chơi” ngay, thế nhưng y lại sợ Con-Người-bị-treo-trên-thập-giá, người mà thiên hạ coi là tử tội, lộng ngôn, và đang ở trong tình trạng thụ động, chẳng làm gì được. Lạ thật! Y là kẻ hại người không run tay, thế mà lại run sợ trước một “tử tội” giống như mình. Có lẽ khi đi cướp, y chỉ cướp của những nhà giàu hách dịch chứ không cướp của người hiền lành. Y vẫn biết “tội nghiệp” người khác đấy chứ? Đặc biệt là y biết mình tội lỗi tày trời, bị tử hình cũng chẳng oan gì, thế nên y thành tâm sám hối và thú tội, rồi y được Ông-Vua-Không-Ngai Giêsu cho đồng hành vào Vương Quốc Thiên Chúa ngay lập tức. Quá đã luôn!
Lạy Thiên Chúa, xin cho con biết Ngài và biết con để con không ỷ lại và hợm mình. Con là số không, xin Ngài là số một để trọn vẹn mười mươi. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Sáng 20-11-2018