HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN C
2 Sm 5, 1-3 ; Cl 1, 12-20; Lc 23, 35-43
MỞ RỘNG VƯƠNG QUYỀN CỦA CHÚA GIÊSU
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 23,35-43
(35) Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời chế nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là Người Được Tuyển Chọn”. (36) Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống, (37) và nói: “Nếu ông là vua dân Do thái, thì cứu lấy mình đi! (38) Phía trên đầu Người có bản án viết: “Đây là Vua người Do thái”. (39) Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”. (40) Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà có Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! (41) Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”. (42) Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: “Ông Giê-su ơi! Khi vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (43) Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh: Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng”.
2. Ý CHÍNH: Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su trên thập giá như một ông Vua ngự trên ngai vàng của mình. Do dân Do thái đang mong chờ một ông vua trần tục đến giải phóng họ khỏi ách đô hộ của đế quốc Rô-ma, nên họ đã không nhận ra Đức Giê-su chính là Vua Mê-si-a: Dân chúng thì đứng nhìn, các đầu mục Do thái thì cười nhạo, lính tráng cũng chế giễu Người. Trên đầu Người có bản án như sau: “Đây là Vua người Do thái”. Hai tên gian phi thì một tên không tin Đức Giê-su nên đã nhục mạ Người, còn người kia tin đã bênh vực và cầu xin Người thương xót, nên đã trở thành người đầu tiên được nhận vào Nước Thiên Đàng của Đức Giê-su.
3. CHÚ THÍCH:
– C 35-38: + Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời chế nhạo: Khi đối diện với thập giá của Đức Giê-su, dân chúng ngỡ ngàng đứng nhìn hậu quả của việc mình đã về hùa với kẻ ác lên án người công chính cách bất công. Còn các đầu mục Do thái thì hả hê vì đã hạ gục được một người đã dám chống lại họ. + Là Đấng Ki-tô: Ki-tô (Christos) là tiếng Hy Lạp, tương đương với từ Mê-si-a trong tiếng A-ram hay Do thái. Cả hai từ Mê-si-a và Ki-tô đều có nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu”. Xức dầu là một nghi thức tấn phong một người lên làm vua, tư tế hay ngôn sứ. Chẳng hạn: Sa-mu-en xức dầu phong cho Đa-vít làm vua (x. 1 Sm 16,13), Mô-sê xức dầu phong A-a-ron làm tư tế (x. 1 V 19,16), Ê-li-a được lệnh xức dầu phong Ê-li-sê làm ngôn sứ (x. 1 V 19,16; Is 61,1). + Là Người Được Tuyển Chọn: Đây là tước hiệu đã được Chúa Cha xác nhận trước mặt ba môn đệ khi Đức Giê-su hiển dung trên núi (x. Lc 9,35), phù hợp với lời tuyên sấm của I-sai-a về người Tôi Trung, được Thiên Chúa tuyển chọn để thực hiện công trình cứu độ, nhưng lại bị người đời khinh dể (x. Is 42,1). + Lính tráng cũng chế giễu Người: Lính tráng ở đây là binh sĩ Rô-ma. Chúng thi hành án lệnh của quan tổng trấn Phi-la-tô đóng đinh Đức Giê-su. Bọn lính này cũng vào hùa với các đầu mục Do thái chế giễu nhục mạ Người. + Chúng lại gần đưa giấm cho Người uống: Giấm là một thứ nước Pó-ca pha chất chua mà quân lính Rô-ma hay dùng. + Đây là Vua người Do thái: Câu này do quan Phi-la-tô truyền viết gắn lên cây thập giá như bản án. Ngày nay trên cây Thánh giá, ta thấy có chữ INRI, là chữ viết tắt của câu tiếng La tinh: “JESUS NAZARETH REX JUDEORUM”, nghĩa là: “Giê-su Na-da-rét Vua dân Do thái” (x. Ga 19,19).
– C 39-41: + Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá: Thập giá là hình phạt của người Rô-ma dành cho các tử tội phản loạn hay phạm các tội đại gian đại ác. Nhưng nơi Đức Giê-su: Thập giá trở thành Thánh giá, thành phương thế cứu độ loài người. + “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”: Tên gian phi này đã nghĩ Đức Giê-su chỉ là một ông Vua Thiên Sai giả, không thể làm được những điều kỳ diệu, nên đã lên tiếng chế giễu Người. Đây cũng là cơn cám dỗ cuối cùng của ma quỷ, yêu cầu Đức Giê-su làm phép lạ phục vụ mình, giống như ma quỷ đã cám dỗ khi Người khởi đầu rao giảng Tin mừng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy…” (Lc 4,3). Dân làng Na-da-rét cũng có lần đã cám dỗ Người như thế (x. Lc 4,23). + Nhưng tên kia mắng nó…: Chỉ Tin mừng Lu-ca mới nhắc đến thái độ khác biệt của người gian phi có lòng sám hối này.
– C 42-43: + Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !: Trong hoàn cảnh đau thương như vậy thì lời bênh vực và kêu xin của người gian phi, dù có yếu ớt, nhưng cũng an ủi Đức Giê-su rất nhiều. Người đã lập tức tha tội và còn hứa ban hạnh phúc Thiên đàng cho anh, đúng như Người đã nói: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). + “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng”: Thiên đàng là “trời cao” như lời thánh Phao-lô: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Thiên đàng còn là “Trời Mới, Đất Mới” thay cho “trời cũ đất cũ” bị biết mất (x. Kh 21,1). Nơi đó sẽ “không có sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa” (x. Kh 21,4).
4. CÂU HỎI: 1) Tin mừng Lu-ca ghi nhận những thái độ của dân chúng, đầu mục Do thái, lính canh, hai tên gian phi trước cuộc tử nạn của Đức Giê-su thế nào ? 2) Ki-tô hay Mê-si-a nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu”. Trong Thánh kinh, ba chức vụ nào được xức dầu trong nghi lễ tấn phong ? 3) Chữ INRI được gắn trên cây Thánh giá có nghĩa là gì ? 4) Tại sao lại gọi thập giá Đức Giê-su là Thánh giá ? 5) Cơn cám dỗ cuối cùng Đức Giê-su phải đương đầu trên cây Thánh giá thế nào ? 6) Câu nào của Đức Giê-su trên cây Thánh giá cho thấy Người tỏ ra ưu ái đặc biệt đối với tội nhân có lòng sám hối ? 7) Thiên đàng Đức Giê-su hứa với anh trộm lành là nơi nào?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Phía trên đầu Người có bản án viết: “Đây là Vua người Do thái” (Lc 23,38).
2. CÂU CHUYỆN: ANH KHÔNG CÒN GÌ ĐỂ CHO EM HƠN THẾ NỮA
Gần đây, các thợ lặn đã tìm được một con tàu đã bị đắm ở ngoài khơi biển Bắc Ái nhĩ lan cách đây 400 năm. Trong số các báu vật tìm được trên con tàu này, có một chiếc nhẫn cưới của một người đàn ông. Sau khi được lau chùi sạch sẽ, trên mặt nhẫn hiện ra một hàng chữ kèm theo hình một bàn tay đang cầm một quả tim đưa ra. Người ta đọc được câu ấy như sau: “Anh không còn gì để cho em hơn nữa”. Trong tất cả những báu vật tìm thấy trên con tàu, không vật nào khiến cho các tay thợ lặn cảm động cho bằng chiếc nhẫn với hàng chữ khắc ghi trên đó.
3. SUY NIỆM:
Hôm nay là Chúa nhật cuối năm phụng vụ, Hội thánh mừng lễ Chúa Giê-su làm Vua để nhắc nhở chúng ta: Đức Giê-su chính là Vua của vũ trụ và cũng là Vua của mỗi người chúng ta. Vậy tước vị Vua của Đức Giê-su như thế nào và chúng ta phải làm gì để trở thành thần dân trong Nước Trời của Người ?
1) Giê-su là Vua: Đức Giê-su là Vua, nhưng không phải như hầu hết các ông vua trần tục: dùng bạo lực để chinh phục các dân tộc và cai trị dân chúng trong nước bằng sự hà khắc bóc lột để hưởng thụ một cuộc sống xa hoa, đắm chìm trong các đam mê lạc thú … Còn Đức Giê-su là Vua Thiên Sai và là Vua Tình Yêu. Người muốn mọi người được hạnh phúc trong Nước của Người:
-Ông Vua Thiên Sai: Tiếng Do thái Thiên Sai là Mê-si-a (Messiah), tiếng Hy lạp là Khristos và tiếng La tinh là Christus (Ki-tô), nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu”. Theo Cựu Ước, Đấng Thiên Sai thuộc dòng dõi vua Đa-vít như ngôn sứ Na-than đã tuyên sấm với Đa-vít: “Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền… Đối với nó, Ta sẽ là cha. Đối với Ta, nó sẽ là con. … Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó… Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta” (2 Sm 7,12-16). Về sau các ngôn sứ I-sai-a, Mi-ca… tiếp tục tuyên sấm về thân thế và sứ mệnh của Đấng Thiên Sai và dân Do thái luôn trông mong Đấng Thiên Sai đến. Đức Giê-su đã đến thi hành sứ mệnh thiên sai ứng nghiệm lời tuyên sấm của các ngôn sứ. Người đã chọn con đường “qua đau khổ vào vinh quang” theo ý Chúa Cha, nhờ đó đã được Chúa Cha tôn vinh làm “Chúa” muôn loài như lời thánh Phao-lô: “Nhờ đã hạ mình vâng lời chịu chết, một cái chết thập giá, mà Người đã được Thiên Chúa siêu tôn và ban một Danh trổi vượt trên muôn ngàn Danh hiệu là: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (x. Pl 2,8-9). Đến ngày sau hết, Đức Giê-su sẽ lại đến phán xét nhân loại như Vua Thẩm Phán. Người sẽ phân người ta thành hai loại là chiên và dê, dựa vào các việc bác ái cụ thể họ đã làm hay không làm khi còn sống (x. Mt 25,34-36.41-43).
-Ông Vua Tình Yêu : Đức Giê-su tự xưng là Mục Tử nhân lành. Người biết rõ từng con chiên, chăm sóc nuôi dưỡng cho chiên được sống và sống dồi dào, đi tìm chiên lạc để đem về đàn (x. Ga 10,10-11. 16-17). Tin mừng Gio-an viết: “Người đã yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Người đã thiết lập bí tích Thánh Thể để ở cùng môn đệ mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20) và để ban Thịt Máu mình làm của ăn của uống ban sự sống đời đời cho họ (x. Ga 6,51). Người còn là Vua Hòa Bình biểu lộ qua việc ngồi trên con lừa khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem (x. Lc 19,35-38). Trong vuộc khổ nạn, Người đã chứng tỏ tình yêu tột cùng bằng việc bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn để máu và nước chảy ra thanh tẩy tội lỗi thế gian (x. Ga 19,33-34). Người đã đã sẵn sàng chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho loài người chúng ta và trở thành Ông Vua Tình Yêu. Trên đầu Người có bản án của Phi-la-tô như sau: “Giê-su Na-da-rét Vua dân Do thái” (x. Ga 15,13).
2)Vương Quốc của Vua Giê-su:
Để thi hành sứ mệnh Thiên Sai, Đức Giê-su đã thiết lập một Nước Trời hay Nước Thiên Chúa. Sau thời gian ẩn dật 30 năm tại Na-da-rét, Đức Giê-su bắt đầu đi công bố Tin Mừng Nước Trời (x. Mt 4,23-24). Người kêu gọi mọi người “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng” (x. Mc 1,12). Người nêu ra điều kiện để được vào Nước Trời là sống Tám Mối Phúc Thật (x. Mt 5,1-12).
Ai muốn làm môn đệ của Người phải bỏ đi cái tôi ích kỷ tự mãn và vác thập giá mình hằng ngày là sự chu toàn bổn phận, chấp nhận các điều trái ý vâng theo thánh ý Chúa Cha (x. Lc 9,23). Người đòi môn đệ phải tuân giữ giới răn “mến Chúa yêu người”, phân phát gia sản cho người nghèo để đổi lấy kho báu thiêng liêng trên tròi rồi đi theo làm môn đệ của Người (x. Mt 19,21).
Đức Giê-su đòi các môn đệ phải thi hành giới răn “yêu thương nhau như Thầy đã yêu” (x. Ga 13,34-35). Cụ thể phải sống kinh Hòa Bình là bản tóm các lời dạy của Đức Giê-su. Người cũng muốn chúng ta tích cực truyên giáo bằng việc cầu xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt đến găt lúa đã chín vàng (x. Lc 10,2). Người muốn chúng ta dọn tâm hồn đón nhận Thần Khí hầu có thể chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Người bắt đầu từ trong gia đình, rồi đến khu xóm, trường học, nhà máy, sở làm và trong mọi lúc mọi nơi (x. Cv 1,8).
Đức Giê-su muốn các tín hữu chúng ta phải biết cảm thông với Người bằng việc chuyên cần cầu nguyện cho các mục tử trong Hội Thánh, nhất là cầu cho những người đang lạc xa Chúa, những anh chị em lương dân… giúp họ sớm nhận biết tôn thờ Thiên Chúa và gia nhâp Hội Thánh.
c) Mở rộng Vương Quyền của Vua Giê-su:
Trong kinh Lạy Cha, Đức Giê-su đã dạy các môn đệ cầu nguyện như sau: ”Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”. Ngày nay các tín hữu chúng ta tôn kính Vua Giê-su không những bằng những lời ca tiếng hát tại nhà thờ, đi tôn vương Thánh Tâm Chúa Giê-su tại các gia đình… Nhưng quan trọng hơn: cần tích cực xây dựng Nước Trời yêu thương an bình ngay từ trong gia đình, rồi tại nhà thờ, khu phố, sở làm và mọi lúc mọi nơi…
Chúng ta phải làm thế nào để mọi người trên thế giới đều nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa là Cha, sống chan hòa yêu thương nhau như anh chị em trong đại gia đình của Thiên Chúa, theo lệnh truyền của Chúa Giê-su trước khi lên trời: “Thầy đã được trao tòan quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20). Nhờ Thần Khí của Chúa Giê-su Phục Sinh cùng nỗ lực loan báo Tin Mừng bằng lời nói, kèm theo cuộc sống chứng nhân chia sẻ bác ái và khiêm nhường phục vụ… hy vọng “Trời Mới Đất Mới” là Thiên Đàng Vương Quốc của Đức Giê-su sẽ mau xuất hiện.
4. THẢO LUẬN: 1-Bạn có đồng ý câu: “Yêu thương là cho đi. Cho nhiều là dấu yêu thương nhiều. Cho cả mạng sống của mình là dấu chứng tỏ tình yêu tột đỉnh”? 2-Trong những ngày này bạn sẽ cho người thân những gì để biểu lộ tình yêu của bạn? 3-Để xứng đáng là thần dân trong Vương Quốc của Vua Giê-su, bạn cần làm gì từ bây giờ?
5. NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊ-SU VUA VŨ TRỤ. Nếu chúng con chỉ nhìn Chúa vác thập giá và tuyên xưng Chúa là Vua của chúng con thì chưa đủ. Nếu chúng con chỉ ca ngợi Chúa trong thánh lễ hôm nay mà thôi cũng chưa đủ. Chúng con còn còn phải yêu mến và sống chết cho Chúa, phải chu toàn bổn phận làm cho Vương quốc của Chúa mau trị đến.
– LẠY VUA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết luôn quên mình và chấp nhận vác thập giá là những bệnh tật, là những con người trái tính trái nết đang sống bên cạnh, là những tai nạn rủi ro chúng con gặp phải trong cuộc sống hằng ngày… mà bước theo Chúa. Nhờ đó, hy vọng chúng con sẽ trở nên những môn đệ trung tín và khôn ngoan của Chúa, sẽ được Chúa tha tội và đến giờ chết, chúng con sẽ được Chúa nói: “Ta bảo thật, hôm nay, con sẽ được ở với Ta trên Thiên đàng”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM