Home / Chia Sẻ / Giờ G Đã Điểm Chưa?

Giờ G Đã Điểm Chưa?

 

Gio G Da Diem ChuaĐến một thời điểm quan trọng nào đó, người ta thường nói: “Giờ đã điểm” – tức là “lúc hành động”. Người ta gọi là Giờ G. Có thể Giờ G mang nghĩa tốt hoặc xấu. Và đó là lúc “chạy nước rút”, vì nếu nước đến chân rồi thì nhảy cũng không kịp. Chúng ta thấy “sốt ruột” khi nhìn chiếc đồng hồ cát chậm rãi chảy, nghĩ là còn lâu, nhưng rồi bất ngờ nó chảy hết cát. Bom nổ!

THỜI ĐIỂM ĐÓ XA HAY GẦN ?

Ngôn ngữ nhân loại khá mơ hồ, không thể chính xác. Thậm chí cũng chỉ là tương đối trong sự chính xác. Ví dụ: Hẹn gặp nhau lúc 7 giờ, có ai đến đúng 7 giờ chưa? Thì tương lai có tương lai gần và tương lai xa, nhưng thế nào là xa và thế nào là gần? “Sẽ xảy ra” và “sắp xảy ra” đều là tương lai, nhưng “sẽ” là bao lâu và “sắp” là chừng nào? Thật là khó xác định!

Từ vài chục năm rồi, nhất là trong thời gian gần đây, có nhiều “lời tiên tri” về cuối thời. Người ta có nhiều cách “đồn thổi”, nhưng vẫn thường liên quan “ba ngày, ba đêm”. Nghe “tin đồn” về ba ngày tối thui, một anh bạn gởi mail: “Lo thì có lo, nhưng lo vẫn hơn. Điều dự đoán có thể xảy ra hoặc không, nhưng có thể thật đấy!”.

Có người nói rằng nghe tin “biến động” mà người Maya dự báo xảy ra vào ngày 21-12-2012, hoặc đất trời tối đen vào các ngày 23, 24 và 25-12-2012 thì “toát mồ hôi hột”; có người lại cho rằng đó là “tin vịt”, không đáng tin. Mỗi người mỗi vẻ, chẳng ai giống ai; kẻ nhát đảm thì chết khiếp, người gan lì thì coi trời bằng… nắp bia!

Theo trí tưởng tượng của con người, có thể người ta sẽ “lo sợ” các ngày như ngày 16-06-2016, 17-07-2017, 18-08-2018, 20-02-2020,… Nói chung là các ngày tháng có sự “trùng lặp” hoặc “nghịch đảo” con số nào đó. Như vậy, người ta duy tâm mà cứ nói là vô thần, người ta dị đoan mà cứ tưởng mình rất khoa học. Có lần Chúa Giêsu đã nói: “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Lòng có đầy, miệng mới nói ra (Lc 6:45).

Nên nhớ rằng “khoa học không hề đối lập với tôn giáo”. Hãy nghe lời xác nhận của các bác học danh tiếng:

   – Bác học Louis  Pasteur nói: “Càng nghiên cứu khoa học, tôi càng tin vào Thượng Đế. Mỉa mai cho lòng dạ con người, nếu chết là hết hoặc chết là trở về với hư vô”.

   – Bác học Isaac Newton thấy sự kỳ diệu và trật tự của bầu trời, ông đã thốt lên: “Tôi thấy Thượng Đế qua viễn vọng kính. Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn về tính có thực hơn bất cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó”.

   – Bác học Bourgeois:  “Không có gì cản trở tinh thần khoa học hòa hợp với tín ngưỡng đã được suy nghĩ sáng suốt. Trái lại, khoa học càng được đào sâu, thì tôn giáo lại càng được tăng thêm sức mạnh và bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, lại càng được sáng tỏ hơn”.

   – Bác học Albert Einstein: “Khoa học không tôn giáo là mù lòa, tôn giáo thiếu khoa học là què quặt. Tôi chưa hề gặp điều gì trong khoa học của tôi mà lại đi ngược với Tôn giáo. Sự ác là do vắng  bóng Thượng Đế trong tâm hồn”.

   – Bác học Becquerel nói: “Nhờ nghiên cứu khoa học đã dẫn tôi đến Thượng Đế và tôi có đức tin”.

Người viết đã từng đặt ra những cái “nếu”. Một thanh niên cho rằng người ta có những cái nuối tiếc, còn tôi thì “không có gì để mất, ý nói tôi chỉ có cái “mạng cùi” thì có gì phải tiếc (!). Tôi biết, dù là “mạng cùi” thì người ta vẫn có loại “của cải riêng” khiến người ta vẫn thấy nuối tiếc và sợ chết. Tại sao? Ai cũng biết mình không trường sinh bất tử, trước sau gì cũng chết, thế mà nghe nói đến sự chết thì người ta cho là “xui xẻo”, hoặc mới chợt “thấy” tử thần đứng nhìn từ xa mà người ta đã run còn hơn tử tội ra pháp trường. Chưa chết thật nhưng đã chết khiếp!

Thật ra người ta chưa thực sự hiểu đúng ý tôi. Và nếu “sự cố” xảy ra đúng như người ta dự báo thì sao? Đặc biệt nếu đúng là tận thế thì sao? Cứ nghĩ cho cùng thì tiếc có được không? Và như thế thì chắc chắn người ta chỉ miễn cưỡng! Người ta chỉ tin cái gì “hợp” ý mình, còn cái “không hợp” ý mình thì họ cương quyết không tin.

Thông tin trên internet cũng có nhiều thứ “tạp pí lù”. Có những website đáng tin, nhưng có những trang không đáng tin. Lướt web cũng cần có khả năng chọn lựa nhạy bén. Vì nếu không khéo sẽ nguy hiểm! Kể cũng lạ, có những cái xạo thì người ta dễ tin, có những cái thật thì người ta lại không tin hoặc cố ý không muốn tin. Cũng có thể họ đang tự đánh lừa mình.

Tất nhiên, điều dự báo hoặc tiên đoán thì có thể hoặc không thể xảy ra, không ai dám chắc chắn, dù chỉ 1%. Tuy nhiên, dù đó là “tin vịt” hay “tin gà”, nếu bạn tin (chứ không dị đoan hoặc cuồng tín) thì vẫn có lợi hơn là không tin (chứ không nhẹ dạ). Tin không phải để dao động, hoang mang hoặc run sợ, mà tin để sẵn sàng “trực chiến”.

Chúng ta cũng đã nghe Phúc Âm nhiều lần về lời cảnh báo của Chúa Giêsu: “Cũng như thời ông Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy. Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lót: thiên hạ ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất. Nhưng ngày ông Lót ra khỏi Xơ-đôm, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, ngày Con Người được mặc khải. Ngày ấy, ai ở trên sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy. Cũng vậy, ai ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại. Hãy nhớ chuyện vợ ông Lót. Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống. Thầy nói cho anh em biết: đêm ấy, hai người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại” (Lc 17:26-36). Thế nhưng “nghe để mà nghe”, vì “nghe” nhưng có “tin” không là chuyện khác, vì có “tin” thì người ta mới “hành động”.

Khi nghe Thầy mình nói vậy, các môn đệ cũng đã phải lên tiếng hỏi: “Thưa Thầy, ở đâu vậy?”. Ngài thản nhiên nói với các ông: “Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó” (Lc 17:37). Có lẽ Ngài thấy người ta vẫn cứng lòng nên không thèm nói rõ nữa, vì có nói cũng như “nói với đầu gối”, chỉ là “nước đổ đầu vịt” hoặc “nước đổ lá môn” mà thôi.

Chúa vẫn thường nói: “Ai có tai thì nghe” (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Kh 13:9). Tùy mỗi người, Chúa không hề ép buộc bất kỳ ai!

TẠI SAO NGƯỜI TA VẪN CỨNG LÒNG?

Các tin đồn về “biến động” nọ hoặc “sự cố” kia, rốt cuộc không thấy gì xảy ra. Và đã nhiều lần như vậy. Rồi những lần Đức Mẹ hiện ra, điển hình là Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ em tại Fatima, nhưng rồi từ đó tới nay gần trăm năm rồi, thậm chí từ thời Chúa Giêsu đến nay hơn 2000 năm rồi, thế nên người ta lại cứ “vô tư”, và tất cả cũng chỉ là… “chuyện nhỏ”! Có lẽ người ta nghĩ Chúa và Đức Mẹ là những người thích đùa dai, chứ người ta có thể không nghĩ đó là sự nhẫn nại của Lòng Chúa Thương Xót, chỉ muốn mọi người được cứu độ, được Chúa Giêsu diễn tả qua hình anh người cha nhân hậu mong ngóng đứa con hoang đàng trở về (Lc 15:11-32).

Thiên Chúa biết chúng ta vừa yếu đuối vừa cứng lòng, nóng không nóng hẳn, mà lạnh cũng chưa nguội hẳn, chỉ dở dở ương ương, thế nên Ngài mới tiếp tục cho chúng ta cơ hội. Nước đến chân thì không ai nhảy kịp. Lửa đã bốc cháy thì chỉ có nước khóc. Tất cả đã muộn! Thật vậy, Thánh Phaolô nói: “Bạn lòng chai dạ đá không chịu hối cải, và như vậy bạn càng làm cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa chồng chất trên đầu bạn, trong ngày Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ và biểu lộ phán quyết công minh” (Rm 2:5). Gậy ông đập lưng ông. Tự mình hại mình mà thôi. Thánh Phaolô giải thích: “Tâm trí họ đã ra tối tăm, họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban, vì lòng chai dạ đá khiến họ trở nên dốt nát” (Ep 4:8).

Nhiều lần Đức Mẹ hiện ra ở nhiều nơi và với nhiều dạng, kể cả nhiều mặc khải tư, đều cho biết rằng thời đại của chúng ta hiện nay là “cuối thời”. Chủ đề chung của những lần Đức Mẹ hiện ra và các mặc khải tư: Thời của chúng ta sẽ chứng kiến Đức Kitô đến lần thứ hai.

Khi hiện ra ở Rwanda (Phi châu), các thị nhân nhận sứ điệp chuẩn bị cho lần đến thứ hai của Chúa Giêsu. Alphonsine cho biết: “Đức Mẹ nói phải cầu nguyện nhiều – hiện nay chúng ta phải chuẩn bị cho lần đến thứ hai của Chúa Giêsu”.

Chắc hẳn chúng ta không thể làm ngơ sứ điệp mà Chúa Giêsu đã trao cho Thánh Maria Faustina Kowalska (người Ba Lan, 1905-1938) về Lòng Chúa Thương Xót: “Con chuẩn bị cho thế giới về lần đến cuối cùng của Ta… Hãy làm cho cả nhân loại nhận biết Lòng Thương Xót sâu thẳm khôn dò của Ta. Đó là dấu hiệu của thời cuối cùng; sau đó sẽ là ngày công lý”. Và chúng ta thấy trên cả thế giới, việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót càng ngày càng được lan rộng và được nhiều người dần dần nhận biết.

Khi hiện ra với nữ tu Agnes Katsuko Sasagawa ở Akita (Nhật Bản, 1973), Đức Mẹ cũng nhắc đến ngày giáng lâm của Chúa Con. Thị nhân Akita đã nói về “sự trừng trị dữ dội bằng lửa” sẽ xảy ra nếu nhân loại không ăn năn.

Chắc chắn Chúa Giêsu sắp đến thế gian lần thứ hai, nghĩa là có ngày tận thế. Nhưng người ta không muốn tin đó là sự thật. Không tin điều đó là không tin có ngày tận thế. Có tin cũng chỉ là môi miệng! Chúng ta không thể biện luận bằng cách nào vì động thái của con người đã và đang thể hiện tư tưởng của mình. Chính miệng Chúa Giêsu nói mà chúng ta còn chưa tin thì chẳng ai có thể làm chúng ta tin. Đó là động thái cố chấp, mà cố chấp thì vô cùng nguy hiểm!

Qua lịch sử, Thiên Chúa luôn trao các sứ điệp qua các “mặc khải tư”. Bụi cây cháy với tiên tri Mô-sê, rồi từ các tiên tri Nô-ê, Đa-ni-en, tới Gioan Tông đồ (sách Khải Huyền), tất cả các mặc khải tư đó không hề khác với những gì đã và đang xảy ra ngày nay. Sự khác nhau giữa các mặc khải tư thời xưa và các mặc khải tư thời nay là các mặc khải tư thời xưa được ghi lại trong Kinh thánh.

Nếu chúng ta làm ngơ các mặc khải tư, không chịu tìm tòi và không xin Chúa ban ơn hiểu biết, chúng ta sẽ chẳng khác những người trong thời ông Nô-ê. Người ta đã chế diễu ông Nô-ê và coi thường lời ông cảnh báo về Đại Hồng Thủy, cuối cùng thì họ phải “trả giá”.

Ngay cả cách đối xử của chúng ta với Lòng Chúa Thương Xót cũng vậy. Thật ra Lòng Chúa Thương Xót có từ xa xưa, vì chính Đức Maria đã nói: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:50). Người ta không tin, rồi Chúa Giêsu lại mặc khải cho Thánh Margarita Maria Alacoque (1647-1690) về Thánh Tâm, đặc biệt là tháng 6-1675, nhưng rồi người ta cũng chỉ tin một thời gian, cuối cùng Chúa Giêsu lại đổi cách khác là mặc khải Lòng Thương Xót cho Thánh Faustina.

Khi mặc khải về Thánh Tâm với Trái Tim Chúa bị lửa và vòng gai quấn quanh, Chúa Giêsu truyền cho cách cầu nguyện vắn tắt: “Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài!”. Khi mặc khải về Lòng Chúa Thương Xót, Chúa Giêsu truyền cho cách cầu nguyện vắn tắt: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài!”. Chúng ta thấy rất giống nhau, dù hai cách sùng kính mang tên gọi khác nhau. Mà Thánh Tâm hay Lòng Chúa Thương Xót cũng là MỘT, vì cũng vẫn là Thiên Chúa Tình Yêu như Thánh sử Gioan định nghĩa (1 Ga 4:6 và 8).

Vậy mà có những người vẫn cho rằng việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót là thế này, thế nọ, thậm chí là ngăn cản. Tôn vinh và chúc tụng Thiên Chúa là trách nhiệm và bổn phận, nghĩa là phải truyền bá (cũng như loan báo Tin Mừng và truyền giáo), chứ không phải vui thì cho, mà buồn thì cấm.

Trong sách nguyện “Hồng Ân và Lòng Thương Xót” (Graces and Mercy), ĐGH Urbanô VIII (1623-1644) đã viết: “Trong những trường hợp liên quan các mặc khải tư, nên tin hơn là không tin, vì nếu bạn tin thì điều đó được minh chứng, và bạn sẽ hạnh phúc vì bạn đã tin, vì Đức Mẹ đã yêu cầu như vậy. Còn nếu bạn tin mà điều đó sai, bạn vẫn được chúc lành như thể điều đó đã xảy ra, vì bạn tin điều đó là thật”.

Quả thật, Chúa Giêsu đã xác định trong trường hợp đa nghi của Tông đồ Tôma: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20:29).

Trường hợp mặc khải tư cho Lm Gobbi, các sứ điệp được loan truyền khắp thế giới, đó là Phong trào Đức Mẹ của các Linh mục và Giáo dân (Marian Movement of Priests and Lay People) mà ngày nay có hàng triệu hội viên trên khắp thế giới, trong đó có hơn 300 giám mục và 60.000 linh mục.

Đức Mẹ gọi các linh mục của phong trào này là “Tông Đồ của Thời Cuối Cùng” (Apostles of the Last Times). Trong sứ điệp ngày 24-12-1990, Đức Mẹ cho Lm Gobbi biết rằng Đức Mẹ đặc biệt nhắc đến “cuộc trở lại của Chúa Giêsu trong vinh quang”.

Đức Mẹ nói với Lm Gobbi: “Con đang đi vào thời cuối cùng. Như vậy, hãy nhận lấy những lời tiên báo được trao cho con là Lần Sinh Thứ Hai của Chúa Giêsu đã gần kề. Với tư cách là Mẹ của Mùa Vọng Thứ Hai, Mẹ đang chuẩn bị cho con về lần sinh mới này. Vì vậy, ở khắp nơi trên thế giới, Mẹ đang quy tụ những người con bé nhỏ của Mẹ, đó là những người nghèo khổ, những người khiêm nhường, và những người có lòng trong sạch để chuẩn bị chiếc nôi quý giá cho Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang”.

Trong thông điệp ngày 31-12-1992 trao cho Lm Gobbi, Đức Mẹ nói: “Mẹ đã nói nhiều lần rằng thời cuối cùng đang đến và việc Chúa Giêsu đến trong vinh quang cũng đã gần. Bây giờ Mẹ muốn con nhận biết các dấu chỉ đã được mô tả trong Kinh thánh, cho thấy việc trở lại trong vinh quang của Con Mẹ gần lắm rồi… Mẹ muốn dạy cho con biết ba dấu chỉ mà Chúa Giêsu đã nói trong Phúc Âm, để chuẩn bị cho con về thời cuối cùng, vì các dấu chỉ này sẽ xảy ra trong thời của con”.

Dấu chỉ thứ nhất: Lan truyền sự lầm lạc.

Trong thư thứ 2 gởi giáo đoàn Thêxalonica, Thánh Phaolô nói: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào” (2 Tx 2:2-3). Thánh nhân gọi đó là “mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7), và nói về việc xuất hiện của tên bịp bợm: “Tên gian ác xuất hiện là do tác động của Satan, có kèm theo đủ thứ phép mầu, dấu lạ, điềm thiêng, và đủ mọi mưu gian chước dối, nhằm hại những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ” (2 Tx 2:9-10). Như vậy, “tất cả những kẻ không tin sự thật, nhưng ưa thích sự gian ác thì sẽ bị kết án” (2 Tx 2:12).

Những sai lầm về đức tin cũng đang lan tràn khắp thế giới, thậm chí ngay cả các thần học gia danh tiếng cũng bắt đầu lệch lạc về Giáo lý và Giáo huấn như sự hiện hữu của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, vai trò trung gian của Đức Mẹ, luật độc thân, và nhiều vấn đề khác. Hậu quả chung là mất đức tin ở nhiều người trên thế giới ngày nay. Đúng như Chúa Giêsu đã quan ngại: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18:8).

Dấu chỉ thứ nhì: Chiến tranh, tai ương và huynh đệ tương tàn.

Chiến tranh, loạn lạc, cha mẹ và con cái đối nghịch nhau, anh chị em ruột hại lẫn nhau, nước này “gờm” nước kia, mọi người nghi ngờ lẫn nhau, nhìn nhau bằng ánh mắt mang hình viên đạn hoặc gươm giáo, chỉ là xích mích nhỏ mà người ta cũng có thể đâm nhau chết, tai ương hoành hành, bệnh dịch nan y,… Những chuyện đó đã và đang xảy ra từng ngày, thậm chí là “chiến tranh lạnh”.

Dấu chỉ thứ ba: Những cuộc bách hại đẫm máu các Kitô hữu.

Chúa Giêsu nói cặn kẽ: “Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính Ta đây là Đấng Kitô”, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Anh em sẽ nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã; coi chừng, đừng khiếp sợ, vì những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là tận cùng. Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những cơn đói kém, và những trận động đất ở nhiều nơi. Nhưng tất cả những sự việc ấy chỉ là khởi đầu các cơn đau đớn. Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24:9-13).

Tại nhiều nước trên thế giới vẫn thường xảy ra những cuộc đàn áp tôn giáo, không chỉ là người vô thần ghét người có đạo, mà thậm chí là các tôn giáo đàn áp lẫn nhau. Trung quốc có hơn 1 tỷ người vô thần, Giáo hội tại Trung quốc chủ yếu là Giáo hội thầm lặng. Thậm chí Trung quốc còn có phe không hiệp thông với Tòa Thánh và bất tuân lệnh của giáo hoàng.

Dấu chỉ thứ tư: Tội phạm thánh.

Đó là những người phản Kitô. Kinh thánh nói tiên tri về việc xuất hiện của những người xảo quyệt có quyền lực đối với thế giới, họ xuất hiện ngay trước khi Chúa Giêsu đến lần thứ hai, họ sẽ cai trị thế giới và lừa bịp nhiều quốc gia trên thế giới.

Thánh Phaolô: “Tên đối thủ tôn mình lên trên tất cả những gì được gọi là thần và được sùng bái, thậm chí nó còn ngồi trong Đền Thờ Thiên Chúa và tự xưng là Thiên Chúa. Khi tôi còn ở với anh em, tôi đã từng nói những điều ấy, anh em không nhớ sao? Anh em biết cái gì hiện đang cầm giữ nó, khiến nó sẽ chỉ xuất hiện được vào thời của nó. Thật vậy, mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành. Chỉ đợi người cầm giữ nó bị gạt ra một bên, bấy giờ tên gian ác sẽ xuất hiện, kẻ mà Chúa Giêsu sẽ giết chết bằng hơi thở từ miệng Người, và sẽ tiêu diệt bằng ánh huy hoàng, khi Người quang lâm. Còn việc tên gian ác xuất hiện là do tác động của Xa-tan, có kèm theo đủ thứ phép mầu, dấu lạ, điềm thiêng, và đủ mọi mưu gian chước dối, nhằm hại những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ. Vì thế Thiên Chúa gửi đến một sức mạnh mê hoặc làm cho chúng tin theo sự dối trá; như vậy, tất cả những kẻ không tin sự thật, nhưng ưa thích sự gian ác, thì sẽ bị kết án” (2 Tx 2:4-12).

Con người dễ ảo tưởng, thậm chí là tự đánh lừa mình bằng những ảo giác. Thật thế, Thánh Phaolô nói: “Khi người ta nói: ‘Bình an biết bao, yên ổn biết bao!’, thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được” (1 Tx 5:3).

Kinh thánh tiên tri về tương lai sẽ có “sự hy sinh vĩnh viễn” bị hủy bỏ, tức là Thánh Lễ. Điều này có trong những lời tiên tri của Đa-ni-en, một trong những lời tiên trì về “thời cuối cùng” trong Kinh thánh:

Tiên tri Đa-ni-en nghe tiếng nói của người mặc áo vải gai đứng trên mặt sông. Người ấy giơ tay phải, tay trái lên trời mà thề nhân danh Đấng Hằng Sống: “Cho đến một thời, hai thời và nửa thời. Khi nào sức mạnh của dân thánh hết bị bẻ gãy, thì tất cả các điều ấy cũng sẽ hoàn tất”. Tôi nghe mà không hiểu. Tôi liền nói: “Thưa ngài, cuối cùng những điều ấy sẽ như thế nào?”. Người đáp: “Không sao, Đa-ni-en, những lời ấy được giữ kín và niêm phong cho đến thời cùng tận. Nhiều kẻ sẽ được thanh luyện, tẩy trắng và thử bằng lửa. Ác nhân tiếp tục làm điều ác và không ai trong họ sẽ hiểu, còn hiền sĩ thì sẽ hiểu. Từ thời lễ thường tiến bị bãi và đồ ghê tởm khốc hại được đặt lên, sẽ có một ngàn hai trăm chín mươi ngày. Phúc thay ai kiên tâm chờ đợi suốt một ngàn ba trăm ba mươi lăm ngày. Phần ngươi, hãy đi cho tới cùng. Ngươi sẽ được an nghỉ, rồi sẽ đứng lên lãnh phần dành cho ngươi khi thời gian chấm dứt” (Đn 12:7-12).

Đức Mẹ giải thích với Lm Gobbi rằng lời tiên tri trên đây về việc bỏ “Hy Lễ Hằng Ngày” bao gồm việc hủy bỏ Thánh Lễ bởi kẻ phản Kitô: “Bằng cách chấp nhận giáo lý phản nghịch, người ta sẽ cho rằng Thánh Lễ không là Hy Lễ mà chỉ là bữa ăn thánh, nghĩa là chỉ tưởng nhớ việc Chúa Giêsu làm trong Bữa Tiệc Ly. Như vậy, việc cử hành Thánh Lễ sẽ bị bỏ. Trong việc bỏ Hy Lễ hằng ngày như thế là tội phạm thánh của kẻ phản Kitô, việc này sẽ kéo dài khoảng ba năm rưỡi, tức là một ngàn hai trăm chín mươi ngày”.

Điều này chưa xảy ra, nhưng khi nó xảy ra, chúng ta có thể chắc rằng các sự kiện dẫn tới việc Chúa Giêsu đến lần thứ hai đang dần tới cao điểm.

Dấu chỉ thứ năm: Những hiện tượng lạ xuất hiện trên trời.

Chúng ta thường gọi đó là “điềm thiêng, dấu lạ”. Chúa Giêsu giải thích những gì sẽ xảy ra ngay trước khi Ngài đến lần thứ hai: “Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến” (Mt 24:30).

Dấu lạ về Con Người sẽ xuất hiện trên trời có thể là Dấu Thánh Giá xuất hiện trên trời như diễn tả của Thánh Faustina về mặc khải của Chúa Giêsu được ghi trong Nhật Ký: “Trước ngày công thẳng sẽ có dấu lạ trên trời: Mọi ánh sáng trên trời sẽ tắt lịm, và sẽ có tối tăm bao trùm trái đất. Rồi Dấu Thánh Giá sẽ xuất hiện trên trời, từ những lỗ đóng đinh chân và tay Đấng Cứu Thế sẽ chiếu tỏa ánh sáng soi chiếu trái đất một lúc. Điều này sẽ xảy ra ngay trước ngày cuối cùng”.

KHI NÀO TẬN THẾ?

Chẳng ai biết trước: “Về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mt 24:36; Mc 13:32).

Trong sứ điệp ngày 15-9-1991 trao cho Lm Gobbi, Đức Mẹ mô tả đó là tân kỷ nguyên (thời đại mới) của hòa bình và niềm vui xảy ra đồng loạt với “cuối thời”: “Tân kỷ nguyên xảy ra đồng loạt với sự hoàn tất Ý Chúa… Từ việc hoàn tất Ý Chúa, cả thế gian đang trở nên mới, vì Thiên Chúa thấy đó là Vườn Địa Đàng Mới, nơi Ngài có thể cư ngụ trong tình yêu thương hài hòa với các thụ tạo… Tân kỷ nguyên mà Mẹ đang chuẩn bị cho con sẽ xảy ra đồng loạt với sự sụp đổ của Satan và triều đại của nó. Mọi quyền lực sẽ bị hủy diệt”.

Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:6-7).

Sau hàng loạt biến động xảy ra, “kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát (Mt 24:13). Và Chúa Giêsu kết luận: “Bấy giờ sẽ là tận cùng” (Mt 24:13-14).

AN TÂM HAY HOANG MANG?

Chúng ta phản ứng như thế nào? Cứ tiếp tục sống đời thường, nhưng với sự khác biệt: Cầu nguyện nhiều hơn và tỉnh thức hơn. Chúng ta tiếp tục sống đời sống Kitô hữu: Sống mỗi ngày như ngày cuối cùng của đời mình. Yêu thương gia đình và người lân cận như là cơ hội cuối cùng của đời mình. Và cuối cùng là cầu nguyện như thể là lần cầu nguyện cuối cùng của đời mình. Chúng ta được trao các khí cụ như nhau: Thánh Lễ, Chuỗi Kinh Mân Côi, Chuỗi Kinh Lòng Thương Xót, Bí tích Hòa giải. Nếu chúng ta thực hiện các điều đó, tận thế không làm cho chúng ta hoang mang, nhưng chúng ta vẫn vui mừng và hạnh phúc.

Trong St 18:20-32, Tổ phụ Abraham đối diện Thiên Chúa với mối quan ngại về điều sẽ xảy ra cho thành Xô-đôm. Abraham hỏi: “Chẳng lẽ ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao?”. Theo sự “mặc cả” của Abraham, Thiên Chúa chấp nhận tha chết cho dân thành Xô-đôm nếu có 50, 45, 40, 30, 20 người lành, thậm chí chỉ có 10 người lành. Và vì 10 người lành đó mà Thiên Chúa sẽ tha bổng cho cả thành. Sau đó Thiên Chúa đi và Abraham trở về nhà.

Đó là huyền nhiệm Tình Chúa dành cho nhân loại, là Lòng Chúa Thương Xót bao la. Đứa con xấu xa nhưng tình mẫu tử thiêng liêng, người mẹ vẫn không ghét bỏ núm ruột của mình. Chính hổ dữ còn chưa ăn thịt con mình kia mà! Chưa thể hiểu hết tình mẫu tử thì chúng ta không thể nào hiểu thấu Tình Chúa. Ngài hết mực yêu thương, không thiên vị, nhưng Ngài cũng rất cương quyết và thẳng thắn, cái nào ra cái nấy, không a dua, không xu nịnh.

Abraham lễ phép và kính trọng Thiên Chúa, không đòi hỏi hoặc tán tỉnh Ngài, ông chỉ năn nỉ Chúa vì thương dân chúng, ông tin tưởng và ông cầu nguyện. Cầu nguyện là việc rất đơn giản: Hướng tâm hồn lên và chân thành tâm sự mọi điều với Thiên Chúa.

Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ cách cầu nguyện khi một trong các tông đồ nói: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện” (Lc 11:1). Và Ngài đã dạy lời cầu nguyện “tiêu chuẩn” nhất: Kinh Lạy Cha. Trong đó có mọi thứ con người mong muốn. Lương thực hằng ngày, sự tha thứ và sống tốt lành là những vấn đề “nóng” của cuộc đời, nói chung là cũng như các vấn đề Tổ phụ Abraham đã nêu.

Nhưng có một tội trọng đặc biệt nhất trong các tội trọng mà Chúa Giêsu cho biết: “Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau” (Mt 12:31-32).

Dù có điều gì xảy ra, điều lớn hoặc nhỏ, điều bất thường hay bình thường, hãy noi gương Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm trong lòng (x. Lc 2:19 và 51). Vì người khôn là người nghe nhiều, nhìn nhiều và làm nhiều nhưng ít nói, không ngừng suy nghĩ và cân nhắc vấn đề cho thấu đáo. Bí quyết là vâng lời Chúa Giêsu: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:36).

Cuộc đời luôn nhiêu khê, lòng người dễ bị ảnh hưởng, dễ bị dao động, cần phải luyện tinh thần “sắt đá” để không bị lung lạc bởi ngoại cảnh, bởi tin đồn. Cần lắm sự bình an, thế nên Thánh Phaolô đã cầu chúc: “Chúa là nguồn mạch bình an, xin Người ban cho anh em được bình an mọi lúc và về mọi phương diện. Xin Chúa ở cùng tất cả anh em” (2 Tx 3:16).

Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Lc 21:25-27). Và Ngài biết chúng ta “yếu bóng vía” nên Ngài đã động viên: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳngngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” (Lc 21:28).

Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa Hỏa Ngục, xin đưa các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn. Ngài là Đấng hằng sống và hiển trị với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Tháng 11-2015

Xem thêm

lc202740

Suy niệm Tin Mừng Thứ Bảy Tuần XXXIII Thường Niên, Năm Chẵn, của Lm Minh Anh

  LÀM CHO PHONG PHÚ “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng …