Ra đi
Cảm nghiệm sâu sắc về việc cầu nguyện, tác giả Thánh Vịnh đã xác định niềm tin và sự thỏa mãn ân tình của Thiên Chúa:
Sống trong công chính mọi ngày
Con đây hạnh phúc thấy ngay Chúa Trời
Mỗi khi con thức giấc đời
Thỏa lòng chiêm ngưỡng rạng ngời Thánh Nhan
(Tv 17:15)
Cuộc đời luôn có nhiều dạng ra đi. Ai cũng có kinh nghiệm ít nhiều về sự ra đi, vì ai cũng đã từng ra đi hoặc chứng kiến người khác ra đi. Cuộc ra đi có thể gần hoặc xa, mau hoặc lâu, nhưng vẫn là một cuộc ra đi. Buồn lắm, nếu cuộc ra đi không hẹn ngày tái ngộ: Người yêu người mà chia tay, bạn bè chấm dứt mối quan hệ, anh chị em ruột không muốn nhìn mặt nhau,… Với các nguyên nhân khác nhau: Ghen tương, ích kỷ, tham lam, cố chấp, độc đoán,… Và buồn nhất vẫn là cuộc ra đi mãi mãi, không hẹn trở lại: Chết!
Tuy nhiên, có những cuộc ra đi đầy phấn khởi, rất vui vẻ đối với cả người ra đi và người ở lại, vì cuộc ra đi này được mong đợi từ lâu – chẳng hạn như việc xa nhà lên thành phố học đại học, con gái theo chồng, người đi định cư ở quốc gia khác,… Nhưng hẳn là vui mừng và cần thiết nhất là cuộc ra đi vì sứ mạng: Loan báo Tin Mừng. Vâng, chính Chúa Giêsu đã truyền lệnh: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15). Đó là nhiệm vụ quan trọng đối với mọi Kitô hữu.
Ra đi cũng có “phong cách” riêng, loan báo Tin Mừng cũng vậy. Có người ra đi, nhưng người ta có đón nhận hay không lại là chuyện khác. Chẳng hạn, có những thuyền nhân không được quốc gia nào đó tiếp nhận, hoặc có những người khách đến mà người ta không tiếp đón. Nhưng có những người đi đâu cũng được tiếp đón nồng hậu. Sự đời cũng lắm chuyện nhiêu khê!
Có lần sau khi xung đột, A-mát-gia nói với ông A-mốt: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều” (Am 7:12-13). Ông A-mốt đã không được người ta tiếp nhận. Nghe lạ mà không lạ. Thật vậy, chính Chúa Giêsu – Ngôn sứ của mọi ngôn sứ – cũng đã bị người ta khước từ khi Ngài trở về quê quán Na-da-rét (Mt 13:53-58; Mc 6:1-6; Lc 4:16-30). Thật khó có thể tưởng tượng nổi một tình huống quá phũ phàng như vậy!
Sau khi nghe A-mát-gia nói vậy, ông A-mốt trả lời: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta” (Am 7:14-15).
Ngôn sứ A-mốt không dám nhận mình là ngôn sứ nhưng ông thực sự là ngôn sứ, dù ông bị “ép buộc” làm ngôn sứ, đi rao giảng cho dân Ít-ra-en. Ông A-mốt ở miền Nam Giu-đê nhưng đi rao giảng ở miền Bắc Ít-ra-en. Ông là người đương thời với hai ngôn sứ Hô-sê và I-sai-a, hoạt động vào khoảng năm 750 (trước công nguyên), thời vua Giê-rô-bô-am II. Ông A-mốt qua đời năm 745 (TCN).
Trung hiếu là đức tính được đề cao. Cụ Nguyễn Đình Chiểu đã đề cập ngay câu lục bát đầu tiên của tác phẩm Lục Vân Tiên: “Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”. Nói là nói vậy, chứ nam hay nữ đều cần trung hiếu. Thiên Chúa cũng quý mến người trung hiếu. Tác giả Thánh Vịnh đã nói: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta” (Tv 85:9-10). Chắc chắn ai cũng mơ ước một đất nước “đại đồng” như vậy, nhưng có lẽ ước mơ vẫn chỉ là mơ ước đối với chúng ta trên thế gian này!
Dù biết chỉ là mơ ước thì chúng ta cũng vẫn phải ước mơ, khao khát, mong mỏi. Chắc chắn điều đó sẽ đạt được khi có Thiên Chúa. Và thời kỳ đó đã thực sự đến giữa chúng ta, ngay trên thế gian này: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân” (Tv 85:11-14). Nước Thiên Chúa đã đến, việc còn lại là trách nhiệm của chúng ta: Thực hiện công lý. Có công lý ắt sẽ có hòa bình. Chưa có hòa bình vì chúng ta chưa thực hiện công lý – nghĩa là chúng ta còn đàn áp nhau, áp bức kẻ yếu, đè bẹp kẻ nghèo khổ, thậm chí còn “dàn cảnh” để cướp giật của người khác. Họ ích kỷ với quan niệm: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”.
Thiên Chúa biết phàm nhân “miệng nam-mô, bụng một bồ dao găm”, nhưng Ngài vẫn hết mực yêu thương và đã chính thức thiết lập Kế hoạch Cứu độ – ngay từ khi Ông Bà Nguyên Tổ phạm tội bất tuân lệnh của Thiên Chúa [Adam và Eva không là tên riêng, chỉ là tên tượng trưng để gọi hai con người đầu tiên: Adam nghĩa là “con người” hoặc “từ bụi đất”, Eva nghĩa là “người cộng sự”].
Thật hạnh phúc khi chúng ta có một Thiên Chúa tuyệt đối như vậy. Thảo nào Thánh Phaolô đã không thể lặng im mà phải lên tiếng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1:3-4). Hạnh phúc chồng lên hạnh phúc, niềm vui nối kết nỗi mừng. Tại sao? Bởi vì không chỉ chúng ta được gọi Thiên Chúa là Thân Phụ, mà còn được Ngài quan tâm chăm sóc không ngừng: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người” (Ep 1:5-7).
Quả thật, dành cả đời đời của tỷ tỷ người để tạ ơn Ngài cũng không đủ chứ nói chi tới một cuộc đời của mỗi chúng ta. Thánh Phaolô cho biết chi tiết: “Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô. Cũng trong Đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người” (Ep 1:8-12).
Thật vậy, Cựu Ước đã xác định: “Lành dữ, sống chết, giàu nghèo, tất cả đều do Đức Chúa” (Hc 11:14). Không gì ngoài Thánh Ý Chúa, nhưng trong mọi hoàn cảnh, “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định” (Rm 8:28). Nhận biết được như vậy là bắt đầu trưởng thành tâm linh. Nhưng muốn trưởng thành trong đời sống Kitô giáo, chúng ta cần phải có ba yếu tố quan trọng: Yêu Thương, Tha Thứ, và Chấp Nhận. Đó là tam-giác-sống như điều kiện ắt có và đủ, thế nhưng lại không hề đơn giản – nghĩa là phải nỗ lực không ngừng qua từng hơi thở.
Thánh Phaolô cho biết thêm, đồng thời cũng xác định và động viên chúng ta sống tích cực: “Trong Đức Kitô, cả anh em nữa anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Kitô, một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” (Ep 1:13-14). Vì tin tưởng mà chờ đợi, khi chờ đợi thì phải hành động, chứng tỏ bằng hành động là can đảm gặp gỡ tha nhân, muốn gặp gỡ thì phải đứng dậy và vào đời.
Tin Mừng hôm nay là trình thuật Mc 6:7-13 (Mt 10:5-15; Lc 9:1-6), nói về việc Đức Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi giảng. Ngài gọi sai họ đi từng hai người một. Để cung cấp “hành trang” cho họ lên đường, Ngài đã ban cho họ quyền trừ quỷ. Tuy nhiên, Ngài đưa ra chỉ thị xem chừng “không giống ai” chút nào ráo trọi: Không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. Chúa Giêsu nói rất rõ ràng, không úp mở, không bóng gió, thế mà thật buồn khi thấy có người vẫn dám làm trái ngược, xao lãng cái chính mà chú trọng cái phụ, lem nhem về chuyện tiền bạc, tìm cách lo thu gom vật chất vì mục đích cá nhân! [Xem: http://vietcatholic.com/News/Html/140212.htm].
Chúa Giêsu không muốn ai dính bén vật chất, vì vật chất sẽ làm người ta mù quáng, thế nên Ngài bảo “ra đi với đôi tay trắng”, và Ngài căn dặn các môn đệ rất cặn kẽ: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ” (Mc 6:10-11). Chúa Giêsu luôn có phong cách thanh thản và tự nhiên: Người ta không tiếp nhận mình thì thôi, đi nơi khác chứ cũng không ghét bỏ ai. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Đơn giản thôi!
Các ông ra đi rao giảng Nước Trời, kêu gọi ăn năn sám hối, trừ quỷ, xức dầu và chữa người ta khỏi bệnh tật. Đó là sống yêu thương, thực hiện lòng thương xót với bất cứ ai, đặc biệt là đối với những người không ưa mình, kể cả những kẻ thù. Sống lòng thương xót là sẵn sàng và can đảm ra đi, vào đời, ra khơi, vào giữa bầy sói,…
Lạy Chúa, xin cho con biết bình tĩnh chấp nhận thua thiệt và đón nhận những gì không thể thay đổi, can đảm THAY ĐỔI những gì CẦN THAY ĐỔI, càng sớm càng tốt, và khôn ngoan phân biệt con người và hoàn cảnh của con với con người và hoàn cảnh của người khác. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU