Home / Suy Niệm Lời Chúa / SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT II MÙA CHAY B CỦA LM ĐAN VINH

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT II MÙA CHAY B CỦA LM ĐAN VINH

 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

 

(St 22,1-2.9a.10-13.15-18 ; Rm 8,31b-34 ; Mc 9,2-10)

 

HÃY NGHE LỜI NGƯỜI

 

I.HỌC LỜI CHÚA

 

1. TIN MỪNG: Mc 9,2-10

(2) Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. (3) Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. (4) Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su. (5) Bấy giờ, ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: “Thưa thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, Thầy một cái, ông Mô-sê một cái, và ông Ê-li-a một cái”. (6) Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. (7) Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. (8) Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi. (9) Ở trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Người đã từ cõi chết sống lại. (10) Các ông tuân lệnh đó, những vẫn bàn hỏi nhau xem câu “Từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì?

2. Ý CHÍNH:

Sau khi cho các môn đệ biết về việc Người sắp lên Giê-ru-sa-lem để chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, Đức Giê-su muốn củng cố lòng tin của các ông đang bị giao động, bằng cách đưa 3 môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lên núi cao. Tại đây, Người biến hình trước mặt các ông, rồi có lời Chúa Cha xác nhận Người là Con yêu dấu. Có Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo về cuộc khổ nạn Người sắp trải qua. Như vậy, việc biến hình cho thấy cuộc khổ nạn của Đức Giê-su là do thánh ý của Chúa Cha và cũng nhằm khích lệ tinh thần của các môn đệ, giúp các ông kiên vững lòng tin khi phải chứng kiến cuộc khổ nạn của Người sau này.

3. CHÚ THÍCH:

– C 2-4: + Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an: Đây là ba môn đệ được Chúa ưu ái. Người cho các ông nhìn thấy vinh quang Thiên tính của Người, như chuẩn bị tinh thần trước để các ông khỏi bị vấp ngã khi phải chứng kiến cảnh Người phải lo buồn sầu não trong vườn Cây Dầu trước giờ chịu khổ nạn (x. Mc 14,33). + Lên núi cao: Chưa xác định là núi nào trong hai ngọn núi là Tha-bo và Héc-mon. Núi cao thường được coi là nơi Đức Chúa ngự. Lên núi cao là để gặp gỡ Đức Chúa, như Mô-sê gặp Đức Chúa trên núi Khô-rếp trong vùng Si-nai để đón nhận mười điều răn được khắc trên hai tấm bia đá (x. Xh 24,12-18), còn Ê-li-a là vị ngôn sứ thời kỳ Các Vua, ông phải chạy trốn cuộc truy bắt của hoàng hậu I-de-ven bằng cách trớn lên “núi Thiên Chúa” (x. 1V 19,2.8). Trong Tin mừng hôm nay, ba môn đệ đã được Đức Giê-su cho leo lên núi cao để được Người mặc khải cho biết về Thiên tính của Người. + Người biến đổi hình dạng: Đức Giê-su tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của phàm nhân, để mang một hình dạng khác của Con Thiên Chúa. Y phục rực rỡ trắng tinh chiếu tỏa vinh quang thiên giới. Trong đoạn này, Mác-cô cho thấy: Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a đang ẩn mình, người Tôi Trung đau khổ của Thiên Chúa, giờ đây đã tỏ bày ra trước kỳ hạn về vinh quang phục sinh sau này. + Ông Ê-li-a và ông Mô-sê: Hai vị này đều đã từng leo núi để tiếp nhận mặc khải của Đức Chúa. Hai vị đều là nhân vật của thời cánh chung. Cả hai đều bước vào thế giới bên kia cách bí nhiệm: Mô-sê thì bị chết ở miền đất Mô-áp trước khi dân vào chiếm Hứa Địa, nhưng không ai biết được mộ phần ông ở đâu (x. Đnl 34,6), còn Ê-li-a thì leo lên chiếc xe ngựa rực lửa bay về trời trong cơn gió lốc (x. 2V 2,11). Ở đoạn này, sự hiện diện của Mô-sê tượng trưng cho Lề Luật, và của Ê-li-a tượng trưng cho các Ngôn sứ. Điều này chứng minh có sự liên tục giữa Cựu Ước với Tân Ước. Nó cho thấy thời kỳ Cánh Chung và Cứu Độ đã khởi đầu. + Hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su: Mác-cô không nói đến nội dung cuộc đàm đạo, đang khi Lu-ca lại cho biết: “Và nói về cuộc xuất hành” (nghĩa là cuộc ra đi: chết, sống lại và lên trời của Đức Giê-su) – mà Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (x Lc 9,29).

– C 5-8: + Xin dựng ba cái lều: Lúc đó đang trong thời gian dân Ít-ra-en mừng Lễ Lều kéo dài 7 ngày. Trong các ngày này, họ phải đến ở tạm trong các lều trại làm bằng cành cây, để ôn lại công ơn Đức Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ cho người Ai Cập và cha ông họ đã từng ở trong các lều trại nơi sa mạc (x. Lv 23,34.42-43). Ở đây, Phê-rô xin dựng 3 lều trại nhằm kéo dài cuộc thần hiện mà ông đang chứng kiến. + Có một đám mây bao phủ các ông: Đám mây diễn tả sự hiện diện của Đức Chúa, giống như trong thời kỳ xuất hành của dân Do Thái xưa (x. Xh 40,34-38) + Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người: Lời Chúa Cha công nhận Đức Giê-su là “Con” (x. Tv 2,7), giống như khi Người chịu phép Rửa tại sông Gio-đan (x. Mc 1,11). Đức Giê-su cũng được giới thiệu như một Ngôn Sứ mà mọi người phải nghe theo lời Người chỉ dạy (x. Mt 16,14 ; Cv 3,22-23).

– C 9-10: + Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy: Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi làm phép lạ chữa bệnh hay trừ quỉ, Đức Giê-su thường đòi người vừa được chữa lành phải giữ kín sự việc xảy ra, không được tiết lộ cho người khác biết là Đức Giê-su đã làm phép lạ ấy. Đòi hỏi giữ kín được gọi là “Bí Mật của Đấng Thiên Sai”. Sở dĩ Đức Giê-su không muốn cho người ta biết Người là Đấng Thiên Sai vì cần có thời gian để Người giảng dạy dân Do Thái hiểu đúng về sứ mệnh Thiên Sai theo Ý Thiên Chúa của Người. Nếu nói sớm sự thật này sẽ làm cho dân Do thái đang bị tinh thần ái quốc cực đoan tác động, đang mong đợi một Ông Vua Thiên Sai theo nghĩa trần tục, sẽ hiểu lầm về sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su và sẽ gây bạo loạn, gây cớ cho quân Rô-ma đem quân đến tiêu diệt dân Do Thái nhỏ bé, sẽ bất lợi cho sứ mệnh Thiên Sai về mặt thiêng liêng tinh thần của Đức Giê-su. Cuộc biến hình biểu lộ Thiên tính của Đức Giê-su sẽ được các môn đệ chính thức công bố sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su, nghĩa là sau khi Người từ cõi chết sống lại. + Các ông tuân lệnh đó: Ba môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su. Các ông không nói gì về cuộc biến hình này, mãi đến khi Người trải qua mầu nhiệm chết và sống lại. Dù các ông không hiểu tại sao Người lại cấm như vậy. + Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Cũng như Phê-rô đã can trách Đức Giê-su đừng chấp nhận con đường cứu thế qua đau khổ thập giá theo ý Chúa Cha, còn các môn đệ khác đều không hiểu hay không muốn hiểu về con đường “Từ trong cõi chết sống lại” hoặc “Qua đau khổ vào vinh quang” đã được Đức Giê-su công bố trước cuộc biến hình (x Mc 8,31).

4. CÂU HỎI: 1) Tại sao Đức Giê-su lại hiển dung biến hình trước mặt ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an? 2) Chúa biến hình trên núi cao là núi gì? 3) Đức Giê-su hiển dung để mặc khải Người là ai? 4) Nội dung cuộc đàm đạo với Mô-sê và Ê-li-a là gì và nhắm mục đích gì? 5) Tại sao ông Phê-rô lại xin Thầy cho dựng 3 lều? 6) Đám mây diễn tả về điều gì? 7) Qua lời phán từ trong đám mây, Thiên Chúa muốn mặc khải Đức Giê-su là ai với 3 môn đệ của Người? 8) Bí mật Đấng Thiên Sai nghĩa là gì? Tại sao Đức Giê-su cấm ba môn đệ không được nói ra điều các ông vừa được chứng kiến? 9) Tại sao các môn đệ lại thắc mắc về ý nghĩa của câu “Từ trong cõi chết sống lại” do Đức Giê-su đã nói sau khi biến hình?

II.SỐNG LỜI CHÚA

 

1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã biến đổi hình dạng trước mắt các ông” (Mc 9,2).

2. CÂU CHUYỆN:

1) THIÊN THẦN CŨNG CÓ THỂ BIẾN THÀNH ÁC QUỈ:

Một hôm, một họa sĩ người Ý khá nổi tiếng đang đi bách bộ để tìm hứng sáng tác. Khi đến một khúc cua, ông chợt thấy một bé trai có khuôn mặt hồn nhiên dễ mến. Tự nhiên ông muốn vẽ lại vẻ mặt thiên thần của em. Ông nói với cậu bé rằng: “Này em, em có muốn tôi vẽ chân dung của em không?” Cậu bé gật đầu đồng ý và theo họa sĩ về xưởng vẽ của ông. Mấy giờ sau, cậu ta rất ngạc nhiên và vui mừng nhìn thấy khuôn mặt của em rạng rỡ trong bức tranh. Họa sĩ đặt tên cho bức tranh này là: “Tuổi thơ trong trắng”. Ông treo nó nơi phòng khách, và mỗi khi gặp điều gì bực mình, ông lại nhìn lên bức tranh kia và lập tức lấy lại bình an. Một số người muốn mua bức tranh với giá cao, nhưng dù gặp khó khăn về tài chính mà họa sĩ vẫn không bán.

Hai mươi năm sau. Một hôm họa sĩ cũng đang đi dạo để tìm hứng vẽ tranh. Khi tới gần khu nhà ổ chuột, tình cờ ông nhìn thấy một gã ăn xin, áo quần lôi thôi rách nát và có khuôn mặt chai lì gian ác, trông như một tên quỉ sứ. Ông suy nghĩ: “Sao trên đời này lại có người mang bộ mặt gian ác xấu xa đến thế nhỉ? Phải chi ta vẽ được gương mặt quỉ sứ này để so sánh với gương mặt thiên thần trong bức “Tuổi thơ trong trắng” trong phòng khách nhà ta thì hay biết mấy!”

Bấy giờ gã ăn mày đã chìa tay xin bố thí. Họa sĩ yêu cầu gã làm người mẫu cho ông vẽ và hứa sẽ cho gã một số tiền khá. Gã ăn xin lập tức đồng ý. Khi bức tranh đã vẽ xong, gã nhận tiền và ra về. Nhưng khi đi ngang phòng khách, gã trông thấy bức tranh “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trên tường, gã liền dừng lại nhìn một lúc, rồi hai dòng lệ từ từ lăn trên gò má. Sau đó gã chỉ lên bức tranh và nói với họa sĩ rằng: “Thưa ông, đây chính là khuôn mặt của tôi hồi còn bé mà tôi nhớ có lần đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ. Hôm nay ông lại vẽ khuôn mặt của tôi sau khi nó đã biến dạng!” Rồi gã thuật lại cuộc đời bất hạnh của gã như sau:

“Tôi vốn là một đứa con trai, lại là con một, nên được cha mẹ rất mực cưng chiều. Nhưng cũng vì thế mà tôi sinh ra hư hỏng. Khi cha mẹ tôi lần lượt qua đời, tôi đã bán tất cả gia sản và lao mình vào các thú vui trác táng… Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã phung phí hết tiền bạc của cha mẹ và phải nhập bọn với lũ bạn đi trộm cắp. Rồi tôi bị bắt và thụ án mười năm. Trong thời gian ở tù, tôi đã trải qua rất nhiều gian khổ tủi nhục: Bị đánh đập, ứng hiếp và bị bóc lột tàn nhẫn. Nhưng rồi tôi cũng quen dần với cuộc sống đó. Cuối cùng chính tôi lại trở thành kẻ bóc lột hành hạ các tù nhân mới nhập trại và các bạn tù khác nhỏ yếu hơn tôi. Bây giờ sau khi vừa mãn hạn tù, tôi đang trong tình trạng không một đồng xu dính túi, lại còn mang thêm bệnh lao phổi sang thời kỳ thứ ba. Tôi chẳng biết làm gì hơn là phải đi ăn xin như ông thấy đó”.

Trước tâm sự của một người đã phung phí trót cả tuổi thanh xuân của mình, họa sĩ rất xúc động. Nhưng ông cũng chỉ biết khuyên bảo gã ăn xin hãy cố ăn ở lương thiện. Ít lâu sau, ông được tin gã đã nằm chết cô đơn tại một góc phố. Họa sĩ đã treo bức tranh “Ác quỉ” mà ông mới vẽ bên cạnh bức “Tuổi thơ trong trắng”. Ông cũng thường giải thích cho bạn bè và những ai thắc mắc về hai bức tranh như sau: “Hai khuôn mặt trong hai bức tranh này thực ra chỉ là một con người. Và sự khác biệt giữa hai khuôn mặt thiên thần và ác quỉ chỉ cách nhau 20 năm phóng đãng mà thôi!”.

2) VÂNG LỜI ĐÁNG QUÝ HƠN MỌI BÁU VẬT:

Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng xem một viên ngọc trai vừa to vừa rất đẹp và hỏi rằng:

– Khanh hãy lượng định xem viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?

– Tâu Bệ Hạ, nó đáng giá hơn số lượng vàng khối mà 4 con lừa có thể chuyên chở.

Vua ra lệnh cho quan Tể tướng:

– Nhà ngươi hãy đập bể viên ngọc này đi !

Quan Tể Tướng liền nói:

– Tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể đập bể một báu vật rất quý giá như thế được ạ !

Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.

Kế đó vua lại đưa viên ngọc quý cho quan Thị Vệ trong cung và cũng hỏi :

– Theo khanh, viên ngọc này đáng giá bao nhiêu ?

– Bằng cả một tỉnh thành của Vương quốc.

– Khanh hãy đập bể nó ra !

– Đập vỡ viên ngọc này ư ? Tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được công việc đó.

Nhà vua cũng thưởng cho quan Thị Vệ một chiếc áo danh dự và còn tăng lương cho ông.

Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul :

– Ngươi có thấy viên ngọc nào đẹp bằng viên ngọc to quý này không ?

– Muôn tâu, thần chưa hề thấy viên ngọc nào quý giá như viên ngọc của Đức Vua.

– Nhà ngươi hãy đập nát nó đi.

Lập tức Abdul cầm một viên đá lớn đập nát viên ngọc quý kia thành bụi. Quần thần ai nấy đều thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul. Họ hỏi ông rằng:

– Sao nhà ngươi lại dám làm như thế ?

Abdul bình tỉnh đáp lại:

–      Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào.

Trước thái độ vâng phục tuyệt đối của Abdul, nhà vua đã khen ngợi chàng đã làm đúng nhiệm vụ của một bề tôi trung thành và đã ban thưởng bội hậu hơn hai vị quan kia.

Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được Đức Giê-su chính là Con yêu dấu của Thiên Chúa vì luôn vâng lời Ngài, như Tin Mừng hôm nay đã ghi nhận: Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7b).

3. THẢO LUẬN: 1) Hãy cho biết nguyên nhân nào đã biến một em bé có khuôn mặt trong trắng của thiên thần lại biến thành khuôn mặt gian ác của quỉ dữ? 2) Bạn sẽ thực tập nhân đức nào để loại bỏ thói hư quan trọng bạn đang mắc phải trong Mùa Chay này?

4. SUY NIỆM:

1) Cuộc hiển dung của Đức Giê-su:

– Biến cố Đức Giêsu biến hình trên núi hé lộ cho ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi Thầy Giê-su của các ông: Từ khuôn mặt đến y phục bên ngoài của Đức Giêsu đều biến đổi nên sáng láng đẹp đẽ khiến ba môn đệ cảm thấy sung sướng ngất ngây.

– Bấy giờ đang là lễ Lều Trại, ông Phê-rô trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh đã nhìn thấy Thầy Giê-su trò chuyện với hai nhân vật rất nổi tiếng là ông Mô-sê, đại diện cho Lề Luật và ông Ê-li-a, đại diện cho Lời Chúa phán, nên đã xin Thầy cho được dựng ba cái lều: Một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a.

2) “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7):

Tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám mây chính thức xác nhận Đức Giêsu là “Con Yêu Dấu” và dạy các môn đệ “hãy vâng nghe lời Người”.

– Đức Giêsu là Con Một của Chúa Cha, mang nơi mình tất cả vinh quang và quyền năng của Chúa Cha, thể hiện qua việc biến đổi hình dạng và y phục: Khuôn mặt của Người trở nên sáng chói vinh quang của Thiên Chúa giống như ông Mô-sê sau khi được tiếp xúc với Đức Chúa. Áo Người đang mặc hóa nên “rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy”. Các môn đệ ngỡ ngàng và ngây ngất khi được chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giêsu.

– Tiếp đến tiếng Chúa Cha từ trong đám mây truyền cho các môn đệ “hãy vâng nghe lời Người”: Vâng lời Đức Giê-su là vâng lời Chúa Cha như Người đã nói: “Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Ðấng đã sai Thầy” (Lc 10,16). Vâng lời Đức Giêsu là làm theo lời Đức Ma-ri-a đã dạy gia nhân trong tiệc cưới Ca-na: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Cụ thể vâng lời Đức Giê-su còn là chấp nhận đi con đường “qua đau khổ là chấp nhận thập giá và cái chết để được vào trong vinh quang phục sinh”, điều mà ông Phê-rô đã không chấp nhận và còn lên tiếng can trách Đức Giê-su và đã bị Người mắng: “Xa-tan. Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33). Cuối cùng vâng nghe Đức Giêsu là không được nói với ai về những gì vừa chứng kiến, cho tới khi Con Người “từ cõi chết sống lại”.

3) “Từ trong cõi chết sống lại” (Mc 9,10) nhờ phương thế nào? :

 Cuộc đời người tín hữu chính là họa lại cuộc sống của Đức Giê-su: Khi lãnh bí tích Rửa tội, chúng ta cũng được dìm mình trong dòng nước và trồi lên khỏi mặt nước giống như Đức Giê-su  đã trải qua cuộc tử nạn và được an táng trong mồ, rồi ngày thứ ba đã từ cõi chết trỗi dậy. Các tông đồ các thánh tử đạo đã chấp nhận đi con đường này. Mỗi tín hữu chúng ta hôm nay cũng phải sẵn sàng chấp nhận sự thua thiệt, mất mát giữa đời thường. Chẳng hạn: vì đức tin và quyết tâm trung thành với Chúa không làm điều sai trái nên có thể mất việc làm, mất cả địa vị xã hội…

Thánh Phao-lô dạy: “Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí, là sự sống đời đời. Khi làm điều thiện chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa, chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng. Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6,7-10). Trong những ngày Mùa Chay này, chúng ta cũng cần xét mình và quyết tâm sám hối bằng việc loại trừ các thói hư như: lười biếng việc đạo đức dự lễ, đọc kinh gia đình, không tham lam ích kỷ vô trách nhiệm, tránh nói hành nói xấu kẻ vắng mặt, biết nín nhịn để không gây gỗ với những kẻ mình không ưa… Nhờ việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, dọn mình xưng tội, tham dự các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần, quyết tâm thi hành các công tác tông đồ bác ái và phục vụ cụ thể theo phân công của cấp trên… Nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ được biến đổi nên người mới và được sống lại thật về linh hồn trong Mùa Phục Sinh sắp tới.

5. LỜI CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU, hiện giờ chưa tới lúc chúng con được biến hình vinh quang, nhưng đang là lúc chúng con phải biến đổi nên tốt hơn nhờ sự ăn năn sám hối tội lỗi và ăn chay hãm mình đền tội. Nhờ đó, chúng con sẽ ngày một nên con hiếu thảo luôn làm đẹp lòng Chúa Cha hơn, nên môn đệ thực sự của Chúa nhờ chăm chỉ nghe và thực hành Lời Chúa. Xin cho chúng con biết cộng tác với ơn Thánh Thần để chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH – HHTM

 

 

 

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …